Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 02 năm 2010

01/02/2010
Trong buổi sáng ngày 01/02/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Trang web stockbiz.vn có bài Ngân hàng bị đẩy ra ngoài vòng pháp luật. Bài báo phản ánh: Chủ đề được giới doanh nghiệp bàn tán nhiều nhất những ngày này là vay vốn kiểu "tín dụng đen" ngay trong ngân hàng.
Theo quy định hiện hành, lãi suất cho vay và huy động không vượt quá 150% lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước công bố. Với lãi suất cơ bản 8% hiện nay, các ngân hàng chỉ được phép cho vay không quá 12% một năm. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp cho biết họ phải vay với lãi suất cao hơn thế 3-4%, thậm chí vênh tới 6-7%. Có đủ lý do để ngân hàng hợp thức hóa khoản chênh lệch này, nào là phí quản lý, đảm bảo tài sản, nào là phí kiểm tra tài sản, rồi phí quản lý hạn mức, những loại phí một thời bị cấm nay lại bung ra như nấm sau mưa. Không vay thì không có vốn sản xuất kinh doanh, vay thì doanh nghiệp phải chịu chi phí đội lên mà không thể hạch toán để tính thuế. Đây không phải lần đầu tiên trong ngân hàng xuất hiện chuyện 2 giá, lãi suất hay tỷ giá niêm yết công khai trên bảng chỉ để làm cảnh, thực vay thực mua sẽ phải chịu mức cao hơn.
Nhưng hiện tượng này tái bùng phát ở mức độ nghiêm trọng hơn khi mà gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn 4% chấm dứt, hỗ trợ vay trung dài hạn chỉ còn một nửa, lãi suất cơ bản lại tăng khiến doanh nghiệp than trời đây thực sự là cú sốc kép. Nếu tính tất cả các loại chi phí ngoài lãi suất, giá vốn năm nay đắt gần gấp 3 lần năm ngoái.
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Cao Sĩ Kiêm từng giữ chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong hai nhiệm kỳ, thấu rõ hoạt động của ngành, song cũng không hài lòng trước cảnh ngân hàng chèn ép doanh nghiệp như hiện nay. Các doanh nghiệp hội viên của ông gần đây rất bức xúc vì không thể tiếp cận vốn vay, nếu may mắn thì phải ngậm bò hòn làm ngọt chịu lãi suất cao. Để đảm bảo dư địa lãi an toàn cho các ngân hàng, khi tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% trong tháng 12, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu lãi suất huy động không vượt 10,5%. Nhưng thực tế các ngân hàng đang đối mặt với cơn đói vốn quay quắt, giành giật huy động từ các kênh mà không thể đáp ứng đủ nhu cầu.
Để khuyến khích người dân gửi tiền, ngân hàng nào cũng áp dụng các hình thức thưởng, khuyến mãi và đẩy lãi suất huy động lên tới 12 thậm chí 13% một năm. Nếu cho vay cũng bằng mức này, ngân hàng cầm chắc lỗ vì vậy điều tất yếu là phải tìm cách thu phí để đẩy lãi suất cho vay cao hơn. "Anh có thể cộng thêm tí chút trong khuôn khổ cho phép thì được. Nhưng thu phí theo kiểu vô lối, bắt ép người ta là không được. Tôi đã có ý kiến với Ngân hàng Nhà nước rồi, một khi mức vênh lên đến 3-4% thì tình hình phức tạp rồi", ông Kiêm nói với VnExpress.net chiều 22/1. Điều mà vị chuyên gia già trăn trở ấy là ngân hàng rủng rỉnh thu nhập cao trong khi cả nền kinh tế khó khăn, đã vậy lại còn tận thu doanh nghiệp.
Trên diễn đàn Quốc hội cuối năm ngoái, các nghị sĩ bàn nhiều tới việc nên hay không nên bỏ lãi suất cơ bản. Nếu tự do hóa lãi suất, ngân hàng và doanh nghiệp có thể thỏa thuận thay vì bị khống chế bởi mức trần không quá 150% lãi suất cơ bản hiện nay. Những người phản đối cho rằng nếu bỏ lãi suất cơ bản có nguy cơ tệ tín dụng đen lộng hành, ngân hàng thả sức áp lãi cao để gây khó dễ cho doanh nghiệp. Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Vũ Viết Ngoạn lại quan niệm chính việc can thiệp bằng lãi suất trần khiến thị trường tiền tệ méo mó, không phản ánh đúng cung cầu về vốn. Một khi tất cả đều được vay với lãi suất như nhau, sẽ khiến việc phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Chuyện các ngân hàng lách luật cho vay lãi suất cao như hiện nay cũng có một phần nguyên nhân là bị khống chế lãi suất trần.
Chính ông Cao Sĩ Kiêm khi đó cũng ủng hộ bỏ lãi suất cơ bản, bởi nếu kéo dài ngân hàng sẽ bị đẩy ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, ông cho rằng tự do hóa lãi suất khi kinh tế chưa phục hồi hoàn toàn, nếu không kiểm soát tốt sẽ đẩy hàng loạt doanh nghiệp vào chỗ chết. Câu chuyện lãi suất cơ bản vẫn chưa đến hồi kết. Và chuyện doanh nghiệp phải chịu những khoản phí vô lý ngoài lãi suất cũng chưa có lối thoát. Ngân hàng sẽ sớm đánh mất hình ảnh của mình trong cộng đồng kinh doanh và xã hội nếu vẫn còn kiểu cho vay như vậy.
Bài học ở Mỹ còn đó, tội lỗi của một số ngân hàng gây ra khủng hoảng đã khiến người dân mất niềm tin với cả cộng đồng doanh nghiệp. Khi niềm tin đã hết, ngân hàng cũng chẳng còn cơ hội thanh minh tôi không muốn lách luật mà bị ép làm như vậy.
2. Báo Lao động phản ánh: Bộ Tài chính thông báo Việt Nam vừa phát hành thành công 1 tỉ USD trái phiếu quốc tế kỳ hạn 10 năm. Đây là lần thứ 2 nước ta chào bán thành công trái phiếu quốc tế. Lần trước, vào tháng 10.2005, chúng ta đã huy động được 750 triệu USD bằng phát hành trái phiếu quốc tế với lợi tức 7,125%/năm. Lần này trái phiếu quốc tế có lãi suất danh nghĩa 6,75%/năm và lợi tức phát hành 6,95%/năm.
Vay được vốn là một thành công, nhưng thành công cũng nên được xem xét cả ở khía cạnh lãi suất danh nghĩa và nhất là lợi tức nữa. Nước không ổn định, không có khả năng chi trả thì có vống lãi suất lên thật cao các nhà đầu tư vẫn không muốn cho vay. Xét ở khía cạnh đó, Việt Nam đã thành công. Nước ta cũng thành công ở khía cạnh tiếp cận được đến thị trường vốn quốc tế không dễ, ngoài uy tín của đất nước còn cần đến những kiến thức chuyên gia cao trong đàm phán. Lợi tức 6,95% chúng ta phải trả là cao. Người ta thường lấy lợi tức của tín phiếu kho bạc Hoa Kỳ cùng kỳ hạn làm chuẩn. Hiện nay chênh lệch lợi tức của các trái phiếu của các nước mới nổi phát hành so với lợi tức của tín phiếu kho bạc Hoa Kỳ cùng thời hạn 10 năm, là 300 điểm phần trăm. Mức 6,95% của chúng ta tương đương với mức chênh lệch 333 điểm, cao hơn mức chung 300 này.
Hai nước có đánh giá uy tín tín dụng tương tự như VN là Indonesia và Philippines. Indonesia mới phát hành 2 tỉ USD trái phiếu quốc tế với mức chênh lệch 228 điểm phần trăm (tức là với 5,90% lợi tức), còn Philippines phát hành 650 triệu USD và phải trả mức chênh lệch 184 điểm phần trăm (hay 5,45% lợi tức). Hai nước này đã thành công hơn Việt Nam khá nhiều. Nhìn từ khía cạnh này chúng ta chưa hẳn đã thật thành công. Đó cũng là một thước đo về uy tín quốc gia, và có lẽ kinh nghiệm của chúng ta trên thị trường vốn quốc tế còn chưa nhiều.
Phần lớn vốn ODA cũng là vốn vay, nhưng với lãi suất thấp hơn và thời hạn dài hơn nhiều, song vốn ODA thường gắn với các điều kiện khác. Phát hành trái phiếu là một kênh huy động vốn khác, chúng ta phải trả giá (lãi suất) cao hơn, thời hạn ngắn hơn nhưng lại có thể chủ động hơn về cách sử dụng.
Quan trọng nhất vẫn là việc sử dụng vốn vay. Nếu vốn vay được dùng cho các khoản đầu tư có hiệu quả, tức là ngoài việc phải mang lại kết quả đủ để trả lãi và gốc còn đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Khoản vốn 750 triệu USD do phát hành trái phiếu lần đầu tiên, năm 2005, với lợi tức 7,125/năm đã được Chính phủ cho Vinashin vay lại để phát triển sản xuất kinh doanh. Bộ Tài chính phải trả lãi cho các nhà đầu tư hàng năm và 5 năm sau sẽ phải trả toàn bộ gốc vào ngày đáo hạn. Chưa có đánh giá về hiệu quả của việc sử dụng khoản 750 triệu USD vốn vay này. Với hơn 971 triệu USD thu được trong đợt phát hành này việc sử dụng vốn đó có hiệu quả vẫn là vấn đề cốt lõi.
Vay được vốn trên thị trường vốn quốc tế là việc tốt, vay với điều kiện thuận lợi hơn thì còn tốt hơn nữa, song sử dụng hiệu quả đồng vốn vay mới có tính quyết định.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Theo kết quả điều tra, thống kê về số lượng người đạt đến học hàm tiến sĩ (TS) trên địa bàn huyện Can Lộc (tỉnh Hà Tĩnh), cho thấy: xã Kim Lộc dẫn đầu toàn huyện với 55 người có học vị TS hiện đang công tác trên cả nước và ở nước ngoài. Đặc biệt, có nhiều gia đình có từ 2, 3 đến 5 người con đều là TS. Điển hình nhất là gia đình Nhà giáo nhân dân-GS-TS Trần Văn Huỳnh (SN 1931) có tới 5 người con đều là TS, gồm: TS Trần Hồng Sơn, Trần Hồng Hà, Trần Hồng Hải, Trần Hồng Thái, Trần Thị Lam và cháu là TS Trần Thị Trà Mi. Tiếp đến như gia đình các ông Nguyễn Thụ, Nguyễn Trọng Thuần, Trần Đăng Tam... đều có 2 con là TS.
Hiện tại xã Kim Lộc không chỉ “bỏ xa” xã Trường Lộc (với hơn 40 TS) có khả năng là xã dẫn đầu toàn tỉnh Hà Tĩnh về số lượng TS. Theo ông Phan Văn Mạnh, Phó Chủ tịch UBND xã Kim Lộc, toàn xã Kim Lộc có 11 xóm, 1.000 hộ dân với 4.000 nhân khẩu, tổng cộng 602ha đất tự nhiên, 100% dân đều sinh sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước, thu nhập bình quân từ 5 đến 7 triệu đồng /người/năm, toàn xã còn hơn 130 hộ nghèo.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam có bài Chất lượng hoạt động hành nghề luật sư được nâng cao. Bài báo phản ánh: Ngày 31/1, tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, gần 100 luật sư, đại diện cho hơn 6.000 luật sư trên toàn quốc họp Hội đồng Luật sư toàn quốc lần thứ 4.  Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường tham dự.
Năm 2009, Hội đồng Luật sư, Ban Thường vụ và lãnh đạo Liên đoàn Luật sư Việt Nam chủ động, sáng tạo trong công tác và hoạt động để thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ Liên đoàn quy định, thể hiện năng lực, thực hiện chế độ tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp. Liên đoàn Luật sư cũng chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng hoạt động hành nghề luật sư ở một số lĩnh vực tương đối mới và khó ở Việt Nam, như: vấn đề sở hữu trí tuệ, tham gia tư vấn, tranh tụng thương mại quốc tế...
Năm 2010, Liên đoàn Luật sư tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, như: xây dựng đề án thành lập trường Đào tạo Luật sư Việt Nam, tiếp tục tăng cường công tác bồi dưỡng luật sư theo các chuyên đề và lĩnh vực hoạt động, ban hành quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài SỞ TƯ PHÁP TP.HCM: “Quy định hợp lòng dân mới vào cuộc sống”. Bài báo phản ánh: Hôm 29-1, Sở Tư pháp TP.HCM tổng kết công tác năm 2009. Theo báo cáo, Sở đã hoàn thành “cả núi” công việc thuộc phạm vi, chức năng của Sở. Trong đó, với vai trò là người gác cửa pháp luật cho UBND, Sở đã tư vấn, thẩm định các văn bản pháp luật của TP dưới con mắt của người dân, đặt quyền lợi của người dân lên trên… nên thuyết phục cơ quan ban hành. Tháng 6-2009, những người đã lỡ mua suất tái định cư bỗng dưng… méo mặt vì Sở Xây dựng TP.HCM trình UBND TP dự thảo chỉ thị chấn chỉnh việc mua bán suất tái định cư theo hướng cấm sang nhượng. Ai đã lỡ mua thì có thể được hợp thức hóa nhưng phải đóng thêm tiền cho nhà nước…
Tuy nhiên, Sở Tư pháp TP.HCM cho rằng nên cho phép chuyển nhượng có điều kiện. Phó Giám đốc Sở Tư pháp Ung Thị Xuân Hương phân tích: “Về lý, suất tái định cư là quyền về tài sản của hộ tái định cư nên họ phải được quyền chuyển nhượng. Về tình, lẽ ra hộ tái định cư phải được bố trí nhà đất và có giấy chứng nhận. Đằng này họ phải chờ rất lâu và trong thời gian chờ đợi đó, họ đành bán chui”. Sau đó, dự thảo trên bị UBND bác và Sở Xây dựng TP.HCM trình lại dự thảo theo hướng cho phép chuyển nhượng nhưng phải ưu tiên bán cho nhà nước theo giá của UBND cấp quận hoặc đơn vị quản lý nhà đề xuất. Sở Tư pháp lại cho rằng như vậy là hạn chế quyền lợi của người dân. Gần đây nhất, trong lần thẩm định dự thảo lần thứ ba, Sở Tư pháp TP.HCM vận dụng các quy định của Luật Cư trú và Luật Nhà ở để đề nghị bỏ việc bắt buộc người mua suất tái định cư phải có hộ khẩu thành phố. Ngoài ra, người mua cũng không cần phải chứng minh không có căn nhà nào khác tại thời điểm mua… Bà Xuân Hương cho biết: “Nếu muốn cấm thì cũng không thể nào cấm được vì đó là nhu cầu của dân. Việc cấm không những không giúp cho công tác quản lý mà những giao dịch chui còn dễ nảy sinh những rắc rối sau này. Quy định có hợp lòng dân mới dễ đi vào cuộc sống”.
Đã nhiều năm sống tại trại 979F (phường Long Phước, quận 9), người ta vẫn quen gọi bà bằng cái tên đặc sệt Việt Nam: Lê Thị Hường, chứ ít ai gọi bà bằng tên Theak Sopha. Cũng như nhiều người Campuchia sang Việt Nam để lánh nạn ở giai đoạn 1978-1983, bà Hường cùng hàng trăm người khác không còn giữ một giấy tờ gì để chứng minh quốc tịch gốc. Ngoài trại 979F, trại 979E ở xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi cũng có nhiều người Campuchia sinh sống. Thời gian trôi qua, họ lập gia đình, con cái họ lớn lên cũng không có quốc tịch. Nhiều người rời trại tỏa đi làm ăn xa, chỉ lận lưng tấm thẻ thường trú do công an cấp.
Giữa năm 2008, Bộ Tư pháp có kế hoạch giải quyết vấn đề người Campuchia lánh nạn sang Việt Nam. Sở Tư pháp TP.HCM cùng các cơ quan liên quan phổ biến kế hoạch trên. Ông Nguyễn Văn Vũ, Trưởng phòng Hộ tịch - Sở Tư pháp TP.HCM, kể: “Có rất nhiều người đã lụm khụm, đi không nổi, thế mà vì khát khao nhập quốc tịch Việt Nam, họ chống gậy tới tận điểm tuyên truyền của chúng tôi để hỏi thủ tục nhập quốc tịch. Không chỉ đi một mình, họ còn kéo theo con cháu, bày tỏ niềm vui sẽ thành công dân Việt Nam”. Để phỏng vấn những người đã tự nguyện làm đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam, Sở Tư pháp cử một đoàn cán bộ đến tận nơi họ sống, vì theo ông Vũ: “Đa phần họ có cuộc sống khó khăn, nhiều người đã lớn tuổi. Do đó chúng tôi đến tận nơi cho bà con đỡ cực”. Sau đó, Sở đã trình UBND TP.HCM gần 300 trường hợp đủ điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam. Cuối năm rồi, UBND TP đã gửi các hồ sơ lên Bộ Tư pháp để trình Chủ tịch nước quyết định.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh online có bài Đoạn kết buồn của “Gánh hàng rong và 500 triệu đồng”. Bài báo phản ánh: Trong những ngày này, khi mọi người đang tất bật lo toan cho ngày Tết đến thì chị Vương Mộng Thu (SN 1959, ngụ Hóc Môn, TPHCM), nhân vật trong bài viết “Gánh hàng rong và 500 triệu đồng” đăng trên Báo CATP số ra ngày 24-4-2009, phải ngày đêm xuôi ngược ra thành phố Nha Trang gõ cửa cơ quan thi hành án mong đòi lại 500 triệu đồng bị chiếm đoạt sau hơn 30 năm dành dụm.
Chiều cuối năm trời trở lạnh, cơn gió đầu đông cùng cơn đau tim tái phát làm chị Thu càng suy sụp. Gặp chị vừa “nhảy tàu” ra Nha Trang để năn nỉ người ta trả tiền, nghe chị kể hành trình gian khổ mà lòng chúng tôi se thắt lại. Câu chuyện bất hạnh bắt đầu ập đến với gia đình chị Thu vào những ngày cuối tháng 11-2007. Thời điểm trên, khi đang chuẩn bị làm thủ tục mua căn nhà do nhà nước hoá giá thì bất ngờ chị Thu được bà Tô Ngọc Nở (người quen) giới thiệu gặp vợ chồng Huỳnh Đức Thái Lâm Hoàng (SN 1977, ngụ Ninh Hoà, Khánh Hoà), Lê Nguyễn Thảo Phương (SN 1983, ngụ phường Phước Tân, TP. Nha Trang). Dưới cái mác giám đốc Công ty cổ phần Việt Úc chăm sóc tự nhiên, vợ chồng Phương đưa ra những lời hứa hão huyền cũng như mức lãi suất cao để mong chị Thu cho vay 500 triệu đồng mà gia đình chị dành dụm từ hơn 30 năm qua. “Ngày mượn tiền, người ta hứa nhiều lắm, nghĩ người ta thiệt tình, tôi “lôi” hết số tiền dành dụm đưa cho họ để mong kiếm được chút đỉnh sống qua ngày, nào ngờ lòng dạ con người trắc trở, hai vợ chồng Phương lấy tiền tôi xong rồi bỏ trốn biệt tăm”. Nói đến đây hai dòng lệ người phụ nữ nghèo khổ lại chực tuôn. Mặc dù chỉ mượn trong ba tháng, nhưng đến ngày trả lãi, chị Thu vẫn không thấy họ đả động gì. Chị tìm đến họ thì phát hiện nhiều người cũng “mắc bẫy” như chị. Biết mình bị gạt, chị Thu năn nỉ mong vợ chồng Phương trả giùm số tiền chắt chiu gần suốt cuộc đời mình. Không được, chị lại cầu cạnh cơ quan chức năng. Ngâm hồ sơ một thời gian, người ta bảo đây là quan hệ dân sự, chỉ có đưa ra toà án dân sự mà thôi. Một lần nữa, chị Thu lại phải chạy vạy khắp nơi để kiếm tiền đóng án phí. Rồi phiên xử cũng diễn ra. Hình ảnh người đàn bà nghèo đứng nguyên đơn kiện bị đơn là một cô gái ăn mặc sang trọng tại phiên toà ngày 26-11-2009 do Tòa án thành phố Nha Trang đã làm động lòng nhiều người tham dự. Mặc dù bị đơn (Lê Nguyễn Thảo Phương) dõng dạc thừa nhận số nợ đã mượn của chị Thu, nhưng viện nhiều lý do (trong đó có việc công ty làm ăn thua lỗ), nại rằng mình không đủ khả năng chi trả. Phương chỉ có thể trả hàng tháng vài triệu đồng cho đến tận năm... 2011 mà thôi?! Toà án nhân dân thành phố Nha Trang sau khi xem xét đã tuyên buộc Phương phải trả 500 triệu đồng đã mượn của chị Thu kèm tiền lãi trong thời gian qua chưa “đụng” đến.
Chị Thu mừng lắm và làm thủ tục gửi cơ quan thi hành án thành phố Nha Trang yêu cầu được thi hành án. Song, mọi diễn biến tiếp theo của vụ việc đã làm chị một lần nữa ngỡ ngàng khi tại trụ sở cơ quan thi hành án, chị Thu năm lần bảy lượt bị cán bộ tiếp nhận hồ sơ từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án với lý do người được thi hành án phải chứng minh người bị thi hành án có tài sản để thi hành án?! Trao đổi qua điện thoại với cơ quan thi hành án TP. Nha Trang, một cán bộ cho chúng tôi biết: “Theo luật THA thì nguyên đơn phải có thông tin về người thi hành án (trong đó bao gồm cả việc chứng minh người bị thi hành án có tài sản) thì chúng tôi mới tiếp nhận, chứ nếu không cho dù cơ quan THA có nhận đơn thì cũng chẳng làm được”. Theo chúng tôi, cơ quan THA thành phố Nha Trang chưa làm hết trách nhiệm của mình bởi nhận đơn yêu cầu thi hành án là một chuyện, còn việc chứng minh tài sản người bị THA là chuyện khác.
Câu chuyện về hành trình tìm công lý của chị Thu lại càng dài hơn bao giờ hết. Lần điện thoại cho chúng tôi gần đây nhất ngày 27-1-2010, chị Thu cho biết đã gần như khánh kiệt cả về tiền và sức khoẻ rồi. Trong thâm tâm người đàn bà bất hạnh ấy lại loé lên một ý nghĩ dại dột...  Dù ý nghĩ trên đã bị chúng tôi ngăn cản, song qua đôi mắt thẫn thờ, chúng tôi vẫn lo sợ lời trần tình trên trở thành sự thật.
4. Báo Thanh niên online có bài Thu nợ bằng... trường mẫu giáo. Bài báo phản ánh: Ngày 28.1, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận đã cưỡng chế trường Mẫu giáo tư thục Ban Mai 2 để giao cho chủ mới. Đội ngũ giáo viên và các phụ huynh của Ban Mai 2 đang lo sợ không biết tương lai của ngôi trường sẽ về đâu và việc học của hàng trăm cháu nhỏ sẽ như thế nào?
Theo đơn khởi kiện ra tòa của nguyên đơn Hồ Thị Kim Anh (P. Đức Nghĩa, TP Phan Thiết) thì bà Kim Anh có cho bà Lê Thị Hoài Nhung (16 Thủ Khoa Huân, TP Phan Thiết) vay tiền nhiều lần, tổng cộng hơn 11 tỉ đồng. Trong phiên tòa sơ thẩm của TAND TP Phan Thiết xét xử ngày 19.6.2009, HĐXX đã buộc bà Nhung phải trả cho bà Kim Anh cả vốn lẫn lãi với số tiền là gần 14 tỉ đồng. Ngày 4.7.2009 bà Nhung có đơn kháng cáo, cho rằng thực tế số tiền mà bà Kim Anh cho bà vay chỉ 3 tỉ đồng, số còn lại là tiền lãi do bên cho vay tính nhân lên. Bà Nhung cũng cho rằng, bên cho vay đã dùng nhiều hình thức đe dọa “ép buộc” bà phải ký vào tờ cam kết vay với số tiền lãi nhân lên quá cao. Và khi bà tìm cách trả nợ thì tòa án đã phong tỏa hết tài sản của bà là trường Mẫu giáo Ban Mai 2 và ngôi nhà 16 Thủ Khoa Huân do bà đứng tên.
Tại phiên xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Bình Thuận ngày 13.8.2009, HĐXX cũng quyết định xử y án. Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Nhung, Viện KSND tối cao phát hiện dấu hiệu bất thường và có công văn nêu rõ: “Số tiền lãi mà bà Lê Thị Hoài Nhung phải trả cho bà Hồ Thị Kim Anh theo bản án phúc thẩm dân sự của TAND tỉnh Bình Thuận có sai số. Vì vậy trước khi ra quyết định THA cần có sự giải thích của tòa án về sai sót này”. Tuy nhiên cơ quan Thi hành án tỉnh Bình Thuận vẫn tổ chức phát mãi 2 tài sản của bà Nhung là căn nhà 16 Thủ Khoa Huân và trường Mầm non Ban Mai 2 (số 7-9-11 Đặng Thị Nhu, TP Phan Thiết) để thi hành án cho bà Kim Anh.
Một ngày trước khi lệnh cưỡng chế được thực thi, chúng tôi đã có mặt ở trường Mầm non Ban Mai 2. Đây là ngôi trường khang trang và nằm ở vị trí đẹp giữa trung tâm TP Phan Thiết, được xây dựng trên một dự án thiết kế cho trường mầm non đúng quy cách. Trường đi vào hoạt động từ tháng 2.2007, hiện đang có 231 cháu ở độ tuổi từ 18 tháng đến 5 tuổi theo học, với 36 giáo viên và nhân viên phục vụ cho các hoạt động dạy và học. Cô Bùi Thị Tuyết Triêm, Phó hiệu trưởng nhà trường, ngậm ngùi nói: “Ngôi trường đã gắn bó với cô và các cháu suốt gần 4 năm qua. Bây giờ nghe nói phải bán để trả nợ thì thật xót xa quá. Chúng tôi vẫn biết rằng chủ trường mắc nợ thì phải trả nợ. Nhưng với những người làm công tác giáo dục thì ngôi trường là cái gì đó cao quý lắm, không thể đối xử theo phương thức của những người đi buôn được”.
Chiều 29.1, dù đã trải qua một ngày ngôi trường bị cưỡng chế bàn giao cho chủ mới, nhưng ông Lê Minh Trí, Trưởng phòng Giáo dục TP Phan Thiết vẫn chưa hề biết. “Tôi hoàn toàn bất ngờ về việc này, không thấy ai báo cho tôi hay. Đầu tuần sau tôi sẽ báo cáo với Chủ tịch UBND TP để có hướng xử lý”, ông Trí nói.
5. Báo Đất Việt có bài Nhiều kiều bào than 'khó' nhập quốc tịch Việt Nam. Bài báo phản ánh: Hàng trăm câu hỏi xoay quanh việc nhập quốc tịch Việt Nam, sở hữu nhà tại Việt Nam của hơn 600 kiều bào được nêu ra trong cuộc gặp gỡ Họp mặt kiều bào mừng xuân Canh Dần do Hội Liên lạc người Việt Nam ở nước ngoài TP HCM tổ chức chiều 31/01 tại Dinh Thống Nhất.
Theo Tiến sĩ Lương Bạch Vân, chủ tịch Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài TP HCM, 80% người nước ngoài phải nhập tịch có nguyện vọng được nhập tịch Việt Nam, mua nhà tại Việt Nam để an cư. Thế nhưng, nhiều kiều bào cho rằng hiện việc xin nhập quốc tịch Việt Nam còn nhiều khó khăn.
Ông Lương Huỳnh Ngân, kiều bào Pháp kể: “Tôi có giấy khai sinh năm 1944 tại Cần Thơ, nhưng trong giấy khai sinh của tôi không ghi quốc tịch Việt Nam. Vì thế tôi gặp rắc rối với cơ quan chức năng khi đi xin gia nhập quốc tịch. Cơ quan chức năng giải thích là vì giấy khai sinh không ghi có quốc tịch Việt Nam, nên không thể xác nhận cho tôi, trừ trường hợp tôi phải mang ra được giấy khai sinh của bố tôi”. Ông Tuyền, một kiều bào Pháp, cũng phản ánh: “Một người bạn của tôi, năm nay 80 tuổi có xin được giấy xác nhận gốc Việt Nam do Tòa đại sứ cấp. Nhưng trớ trêu thay, ở cuối giấy có dòng chữ: Giấy chỉ có giá trị trong 6 tháng. Chả lẽ chúng tôi chỉ được làm công dân Việt Nam trong 6 tháng. Hiện người bạn của tôi muốn xin làm thủ tục hồi hương nhưng vẫn chưa được”. Còn ông Vũ Văn Thành, kiều bào Đức thẳng thắn: Thực tế, Luật Việt Nam đặt ra nhiều trường hợp quá khó với kiều bào như phải là người có công, người về Việt Nam đầu tư…thì mới được nhập quốc tịch và sở hữu nhà, trong khi phần lớn kiều bào không thể đáp ứng được. Về Luật sở hữu nhà ở, theo ý kiến của đa số kiều bào, việc quy định cư trú thời gian 6 tháng trở lên được mua nhà nhưng không phân biệt rõ đối tượng, nên nhiều người có nhu cầu lại không được mua.
Nên tách bạch và điều kiện cũng giảm bớt đi để đại bộ phận bà con có nhu cầu được mua nhà để có nơi ở khi về thăm quê. Tách hai đối tượng, những người mua nhà ở số lượng không hạn chế và người mua được một nhà. Đối tượng được mua nhiều nhà là người có quốc tịch Việt Nam, người gốc Việt Nam thuộc diện đầu tư trực tiếp, người có công, làm khoa học, bổ sung thêm người có vợ có chồng đang sống ở Việt Nam và người có kỹ năng đặc biệt mà Nhà nước cần. Đối với những người cư trú chỉ từ ba tháng thôi cũng được mua một căn hộ hoặc căn nhà.
Tiến sĩ Nguyễn Thái Phúc, Trưởng Cơ quan đại diện Bộ Tư pháp tại TP HCM cho rằng, thay đổi Luật quốc tịch năm 2008 đã đạt được nguyện vọng của đại đa số của Kiều bào. Luật lần này quy định trình tự thủ tục minh bạch, rõ ràng, công khai. Chúng tôi cũng có những vướng mắc, đang tập hợp lại, kiến nghị lên trên để sửa đổi, bổ sung. Thực tế, do cách hiểu của cán bộ công chức ở các nơi chưa thống nhất, nên nhiều nơi giải quyết các trường hợp kiều bào vướng mắc, chưa linh động."Còn trường hợp vì sao phải có các điều kiện như phải là người có công, người về nước đầu tư,…thì ở mỗi quốc gia đều có những Luật riêng, Luật này căn cứ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia cụ thể. Chứ không có trường hợp kiều bào mang tiền về nước đầu tư thì mới được nhập quốc tịch như nhiều bà con kiều bào đang thắc mắc", ông Phúc nói.
Ông Nguyễn Văn Vũ, Trưởng phòng hộ tịch Sở Tư pháp TP HCM thông tin thêm, Luật quốc tịch có hiệu lực từ ngày 1/7/2014, nếu bà con có quốc tịch Việt Nam đăng ký giữ quốc tịch đến năm 2014 thì sẽ được giữ quốc tịch.
6. Báo An ninh Thủ đô có bài Sai đâu, sửa đấy. Bài báo phản ánh: Luật Bảo hiểm y tế đã có hiệu lực từ đầu năm 2010, song “bức tranh” y tế vẫn cho thấy những bất hợp lý. Luật tỏ ra khó khả thi trong cuộc sống, nhất là người nghèo không có khả năng thanh toán chi phí khám chữa bệnh. Bên cạnh mức đồng chi trả 20% đối với phần lớn đối tượng, còn có thêm mức 5% với một số đối tượng, trong đó có người nghèo nếu hóa đơn trên 15% tiền lương tối thiểu tháng.
Mục đích của cơ chế đồng chi trả là để hạn chế hiện tượng ngược (chỉ người nào đang, hoặc có khả năng bị bệnh cao mới mua bảo hiểm) và tâm lý ỷ lại (đã có bảo hiểm, lạm dụng quỹ bảo hiểm). Từ năm 2005, với Nghị định 63, người nghèo được ngân sách địa phương bỏ tiền ra mua bảo hiểm y tế nên vấn đề (nếu có), chỉ là tâm lý ỷ lại. Song, liệu người nghèo có phải là đối tượng thích ỷ lại, có nguy cơ cao trong việc lạm dụng quỹ? 
Dù có được miễn phí thì chỉ khi bị bệnh nặng, người nghèo mới chịu đi khám chữa bệnh bởi vì họ còn phải mưu sinh và chi phí đi lại tốn kém. Theo Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2009: số lần tiếp xúc với dịch vụ bảo hiểm y tế của người dân nghèo thấp nhất, chưa tới 0,01 lần/năm (nội trú) và 0,75 lần/năm (ngoại trú), chỉ bằng 1/9 so với đối tượng bảo hiểm tự nguyện khác. Một khi đã phải bước vào bệnh viện, cũng là lúc người nghèo bị bệnh nặng, chi phí điều trị cao, không có khả năng thanh toán theo quy định mới về đồng chi trả. Cơ chế này vô hình trung là “rào cản” ngăn người nghèo bước vào bệnh viện tiếp xúc với dịch vụ y tế vốn đã ở mức thấp.
Nếu vì lý do này mà họ không dám “gõ cửa” bệnh viện thì coi như chính sách bảo hiểm dành cho họ bị vô hiệu hóa, chi phí mà ngân sách Nhà nước bỏ ra để mua bảo hiểm cho họ trở nên vô nghĩa. Ở một góc nhìn khác, tuy chi phí điều trị cho bệnh nhân nghèo có thể cao nhưng số lần tiếp xúc dịch vụ y tế thấp, mức chi cho mỗi thẻ bảo hiểm của người nghèo thấp nhất, thấp hơn mức chi cho các đối tượng bảo hiểm tự nguyện khác đến 12,5 lần, 56.000 đồng/thẻ/năm so với 701.000 đồng/thẻ/năm. Chưa có nghiên cứu đầy đủ xem đâu là “thủ phạm” làm cho quỹ bảo hiểm y tế bội chi. Từ phía các cơ sở y tế khám chữa bệnh, từ cơ chế quản lý hay từ người mua bảo hiểm? Nhưng nếu hạch toán riêng, so sánh từng nhóm đối tượng mua bảo hiểm, thì khả năng người nghèo là “thủ phạm” rất thấp. Mức chi cho mỗi thẻ bảo hiểm của người nghèo thấp thì đương nhiên mức thu từ 5% đồng chi trả cũng sẽ thấp. Người nghèo đạt đủ chuẩn nghèo mới được mua thẻ, số lượng người nghèo đang giảm dần, cho nên tổng số thu cũng không nhiều nhặn gì. Phải thừa nhận rằng, chính sách mua bảo hiểm y tế cho người nghèo là một nỗ lực rất lớn của Nhà nước.
Từ chỗ mệnh giá thẻ ban đầu còn thấp so với bảo hiểm bắt buộc hay tự nguyện, mệnh giá đã được tăng thêm từng năm, đến nay đã ngang bằng với hai hình thức bảo hiểm kia. Điều này tạo điều kiện cho người nghèo không bị phân biệt đối xử với các đối tượng bảo hiểm khác, không tạo chênh lệch giữa quyền lợi người giàu và người nghèo. Một số giải pháp cho người nghèo không có khả năng đồng chi trả đã được đặt ra gần đây, tuy nhiên chúng vẫn mang tính tình thế, vá víu và hệ quả có thể đi ngược với những nỗ lực này. Phó Chủ nghiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội nhấn mạnh: “Không lo cho bệnh nhân nghèo là lỗi của địa phương”.
Nếu ai cũng cho rằng quy định đồng chi trả là chưa hợp lý đối với người nghèo, thì cần phải chỉnh sửa Luật Bảo hiểm y tế, dù đó là việc phải tốn thời gian và chi phí. Sai đâu, sửa đấy cũng là việc bình thường để mọi Bộ luật mang tính khả thi cao nhất trong cuộc sống.


File đính kèm