Điểm tin báo chí sáng ngày 26 tháng 11 năm 2013

26/11/2013
Trong ngày 25/11 và đầu giờ sáng ngày 26/11/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Điện tử Chính phủ có bài 3 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp và Luật Quốc tịch. Bài báo đưa tin: Ngày 25/11, Bộ Tư pháp tổ chức sơ kết 3 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp và Luật Quốc tịch.

Hiện nay, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và 5 Phòng Lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp 5 thành phố  trực thuộc Trung ương đã được thành lập.

Tại Hội nghị, các đại biểu đề nghị cần đẩy nhanh việc thực hiện Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Đồng thời cần kịp thời sửa đổi những quy định bất cập của Luật Lý lịch tư pháp... 

Trước mắt, thể chế về lý lịch tư pháp cần tiếp tục được hoàn thiện; rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật có liên quan đến lý lịch tư pháp; tăng cường hiệu quả công tác phối hợp liên ngành trong triển khai thi hành Luật; kiện toàn tổ chức các cơ quan quản lý lý lịch tư pháp từ Trung ương tới  địa phương; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ… 

* Cũng trong chiều ngày 25/11, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm Luật Quốc tịch.

Theo Cục trưởng Cục Hành chính tư pháp Nguyễn Công Khanh, đến nay đã có 29 tỉnh giải quyết dứt điểm việc nhập quốc tịch Việt Nam cho người không quốc tịch theo quy định của Luật. Ngoài ra, theo số liệu thống kê của Bộ Ngoại giao, từ khi Luật có hiệu lực đến hết tháng 6/2013, đã có hơn 4.000 người đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, chủ yếu ở các nước như Pháp, Hoa Kỳ, Australia...

Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan chức năng báo cáo Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định cho phép 4.414 người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam theo điều 22 Luật Quốc tịch.

Theo đó, người không quốc tịch mặc dù không có giấy tờ về nhân thân, nhưng qua công tác quản lý, theo dõi của cơ quan chức năng cho thấy, nếu họ đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật Quốc tịch có hiệu lực (1/7/2009) và chấp hành tốt pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục đơn giản.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Luật pháp bị "nhờn” tại Tiền Hải (Thái Bình)?. Bài báo phản ánh: Cho dù tài sản đó là của ông Hòa hay của anh Hoản, hành vi dùng số đông người uy hiếp lấy tài sản của người khác là hành vi cưỡng đoạt tài sản công dân, vi phạm Điều 153 Bộ luật Hình sự.

Trong khi máy xúc của ông Hòa và anh Hoản đang hoạt động thì bị một nhóm người chiếm giữ. Đã 14 tháng trôi qua, chiếc máy xúc đang bị xuống cấp theo thời gian trong khi ông Hòa phải đi thuê máy để thực hiện những hợp đồng đã ký kết. Nhân dân địa phương hết sức bất bình và đặt câu hỏi: Phải chăng luật pháp đã bị “nhờn”?

Cách đây ít năm, vợ chồng ông Ngô Đức Hòa và vợ chồng anh Đặng Văn Hoản mua chung chiếc máy xúc Komatsu trị giá gần 500 triệu đồng và giao cho anh Hoản cùng anh Tô Văn Du thay nhau điều khiển. Sáng 18/9/2011, anh Du điều khiển máy đang đào xúc đất ở xã Nam Cường ( huyện Tiền Hải) thì bị khoảng 10 người do ông Trần Mạnh Nhân và Đặng Văn Sáng cầm đầu kéo đến uy hiếp bắt đưa máy lên bờ,  khống chế không cho anh Du gọi điện thoại và bắt anh phải làm theo những yêu cầu của họ. 

Một lúc sau họ gọi người đến lái máy xúc đem đi. Sau khi biết máy xúc của mình bị nhóm người này bắt giữ, ông Hòa gặp họ để đòi máy. Tuy nhiên, nhóm này nói lý do bắt giữ máy là vì chị Đào Thị Hòa (vợ anh Hoản) vay và nợ tiền phường hụi của ông Nhân, ông Sáng nên họ bắt giữ máy để trừ nợ. 

Đòi máy không được, ông Hòa, anh Du đã làm đơn tố cáo hành vi cưỡng đoạt tài sản công dân gửi tới Công an huyện Tiền Hải. Ít ngày sau ông Hòa nhận được thông báo của cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an (CA) huyện Tiền Hải “không khởi tố vụ án hình sự... vì không đủ căn cứ để cấu thành tội phạm... chưa có tài liệu để khẳng định chiếc máy xúc trên là của ông Ngô Đức Hòa”. 

Vậy chiếc máy xúc đó là của ai?. Thực tế không phải không có tài liệu khẳng định chủ nhân của chiếc máy. Tại Bản án số 06/2013/DS-PT ngày 29/1/2013, TAND tỉnh Thái Bình đã thừa nhận đây là tài sản đồng sở hữu của vợ chồng ông Hòa và vợ chồng anh Hoản.

Ông Nhân, ông Sáng thừa nhận hành vi bắt giữ chiếc máy xúc nói trên. Nhân chứng, vật chứng còn đó, nhưng cơ quan CSĐT CA huyện Tiền Hải không khởi tố vụ án hình sự là không thuyết phục.

Ông Nhân, ông Sáng - những người đã bắt giữ trái phép chiếc máy xúc của ông Hòa, anh Hoản - kiện ra tòa dân sự để đòi nợ vợ chồng  anh Hoản. Qua 4 phiên tòa dân sự, Bản án số 06/2013/DS-PT của TAND tỉnh Thái Bình ngày 29/1/2013 đã tuyên: Buộc vợ chồng anh Hoản phải trả nợ cả tiền vốn và tiền lãi cho ông Nhân và ông Sáng 741 triệu đồng.

Buộc ông Trần Mạnh Nhân và Đặng Văn Sáng phải trả lại cho vợ chồng anh Đặng Văn Hoản và vợ chồng ông Ngô Đức Hòa  chiếc máy xúc Komasu đã bắt giữ ngày 18/9/2011 và phải bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông Hòa 116 triệu đồng, bồi thường cho vợ chồng anh Hoản là 62 triệu đồng (Tòa công nhận chiếc máy là tài sản đồng sở hữu của hai gia đình  -  ông Hòa 65% vốn, anh Hoản 35% vốn ).

Ngày 11/3/2013, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Tiền Hải đã ra Thông báo số 265 về việc thi hành Bản án số 06 nói trên. Hết thời hạn quy định nhưng các đương sự không tự nguyện thi hành nên ngày 17/4/2013, Chi cục THADS  huyện Tiền Hải đã ra Quyết định cưỡng chế số 04 đồng thời nhiều lần đã lên kế hoạch cưỡng chế nhưng cho đến nay vẫn không thực hiện được. 

Lý do chưa tiến hành cưỡng chế thi hành án được, theo Chi cục THADS là vì  “Công an huyện chưa xây dựng được kế hoạch bảo vệ cưỡng chế thi hành án”.  

Tuy nhiên, gần một năm đã trôi qua mà CA huyện Tiền Hải vẫn chưa xây dựng được kế hoạch bảo vệ cưỡng chế. Không biết CA huyện cần thời gian bao lâu nữa để dứt điểm vụ việc? Chủ nhân của chiếc máy xúc đang ngày đêm trông ngóng nhận lại máy để sản xuất, trong khi qua thời gian, chiếc máy xúc đang có nguy cơ... biến thành đống sắt gỉ.

Vụ việc trên cần được các cơ quan có trách nhiệm của tỉnh Thái Bình và huyện Tiền Hải làm sáng tỏ để củng cố lòng tin của dân vào sự công minh của pháp luật và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho những người dân lương thiện.

3. Báo Lao động có bài Thông tư “oai” hơn nghị định?. Bài báo phản ánh: Nghị định ban hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng (NĐ79) ra đời cách đây gần một năm. Có thể nói, NĐ79 của Chính phủ đã rõ ràng và đơn giản đi rất nhiều thủ tục, quy chế trong việc cấp phép biểu diễn.

Chuyện chẳng có gì đáng nói, nếu bỗng dưng Cty Dongdo Show không bày tỏ bức xúc trên báo chí rằng: Bây giờ đi đâu biểu diễn,  họ cũng phải mang theo bản gốc giấy phép đăng ký kinh doanh hay sao? Nguyên nhân là mới đây Dongdo Show mang chương trình đã được cấp phép vào TP.Vinh để biểu diễn,  người đại diện Sở VHTTDL yêu cầu phải có bản gốc giấy đăng ký kinh doanh thì mới cho phép.

Hỏi ra thì mới biết là họ làm theo đúng những quy định của pháp luật. Thông tư 03 hướng dẫn thi hành NĐ79 nói rõ: Việc thông báo về nội dung chương trình biểu diễn, các Cty tổ chức biểu diễn phải nộp một bộ hồ sơ, trong đó có “Bản sao có chứng thực Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” (kèm theo bản gốc để đối chiếu) (điều 2, khoản 1, điểm c).

Ô hay, trong khi đó, ngay cả ở khâu xin cấp phép  bước đầu, NĐ79 cũng chỉ quy định trong hồ sơ phải có  “01 bản sao chứng thực quyết định thành lập hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có chức năng hoạt động văn hóa nghệ thuật”,  đâu có đòi hỏi doanh nghiệp phải trình “hộ khẩu gốc” của mình ra. Như vậy, chả hóa ra thông tư hướng dẫn thi hành lại có quyền “oai” hơn cả nghị định hay sao.

Đem thắc mắc này hỏi một cán bộ Cục NTBD – đơn vị soạn thảo thông tư, ông này cho biết: “Khi xây dựng thông tư, chúng tôi cũng đã nghĩ kỹ về việc này rồi, vì hiện có rất nhiều đơn vị mạo danh những Cty có uy tín để đi biểu diễn. Hơn nữa, động tác này cũng không có gì là gây cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp”.  

Còn nhớ, khi NĐ79 được ban hành, rất nhiều sở VHTTDL đã không hài lòng về việc họ được giảm việc “xét, cấp giấy tiếp nhận biểu diễn”. Lý do đưa ra là như thế sẽ khó quản lý hơn, nhưng thực chất có lẽ không phải như vậy! Vấn đề đặt ra là với việc quy định phiền hà mà thông tư 03 hướng dẫn cho các sở VHTTDL về việc tiếp nhận thông báo biểu diễn có phải là một cách “sửa sai” NĐ79 để “tăng quyền” cho các sở VHTTDL hay không?

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đo sự hài lòng sáu dịch vụ hành chính để phục vụ tốt hơn. Bài báo đưa tin: Đó là các dịch vụ: cấp chứng minh nhân dân, đăng ký quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng nhà ở, chứng thực, cấp giấy khai sinh và cấp giấy chứng nhận kết hôn.

Phạm vi khảo sát để đo sự hài lòng của người dân sẽ được thực hiện ở ba cấp độ: toàn quốc, cấp tỉnh và cấp bộ, ngành. Ngày 22-11, ông Phạm Minh Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính (Bộ Nội vụ), nói tại hội thảo hướng dẫn triển khai phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

Theo đó, người dân sẽ đánh giá mức độ hài lòng về bốn nội dung: tiếp cận dịch vụ, thủ tục hành chính, sự phục vụ của cán bộ, công chức và kết quả giải quyết công việc. Ngoài ra, người dân còn có thể góp ý, hiến kế để giúp cơ quan nhà nước cải thiện các dịch vụ công thuận tiện, đơn giản, tiết kiệm hơn. Theo ông Hùng, đầu năm nay đã có sáu địa phương thực hiện thí điểm và công bố kết quả vào tháng 5 vừa rồi. Kết quả khảo sát hơn 1.000 người dân cho thấy dịch vụ đăng ký kết hôn được người dân chấm điểm cao nhất (86,7%), còn dịch vụ cấp chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng người dân ít hài lòng hơn (61,4%, 64,9%)…

“Sau quá trình thí điểm, phương pháp này được chính thức áp dụng trong phạm vi cả nước. Đây là công cụ chủ yếu để đánh giá sự thành công của mục tiêu: năm 2015 có 60% người dân, tổ chức hài lòng với sự phục vụ của cơ quan hành chính và đến năm 2020 con số này sẽ tăng lên 80% trong chương trình cải cách hành chính tổng thể” - ông Hùng nói.

5. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nạn nhân bạo lực gia đình có được trợ giúp pháp lý?. Bài báo phản ánh: Đó là câu hỏi đang được đặt ra không chỉ từ các nạn nhân bạo lực gia đình (BLGĐ), mà cả từ các địa phương, các cơ quan, tổ chức đang hoạt động trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ. Thực tế cho thấy, ở nhiều địa phương được trợ giúp pháp lý (TGPL) để bảo vệ quyền lợi hợp pháp vẫn là mơ ước của nạn nhân BLGĐ.

Trong hơn 6 năm hoạt động  (2007-2013), Ngôi nhà Bình yên đã đón 379 người tạm trú là nạn nhân BLGĐ. 71% số người tạm trú bị cả 3 hình thức bạo lực là thể chất, kinh tế, tình dục nên rất nhiều người có tâm trạng hoảng loạn tinh thần, suy kiệt sức khỏe và “tay trắng” về kinh tế, tài sản. Lúc này các dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân, trong đó có hỗ trợ pháp lý là rất cần thiết để giúp họ trở lại cuộc sống. 

Tuy nhiên, theo bà Lê Thị Thúy – Trưởng phòng Tư vấn thì chỉ có 58% nạn nhân nhận được sự TGPL từ các luật sư, như vậy là cứ 10 người bị bạo hành, chỉ có 5 người được hỗ trợ pháp lý. Lý do chính khiến con số này trở nên rất “khiêm tốn” như vậy là vì nhiều nạn nhân, cũng như các cơ quan, tổ chức đang hoạt động trong lĩnh vực phòng chống BLGĐ vẫn còn chưa biết nạn nhân của BLGĐ có được TGPL hay không.

Theo quy định tại Điều 10 Luật TGPL thì các đối tượng được TGPL chỉ bao gồm 04 loại đối tượng: người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Quy định như vậy đã khiến rất nhiều người, kể cả các luật sư hiểu rằng, ngoài 4 loại đối tượng trên thì các nhóm đối tượng khác, trong đó có nạn nhân BLGĐ… nằm ngoài luật. 

Vấn đề nạn nhân BLGĐ gặp khó khăn khi tiếp cận dịch vụ TGPL đã nhiều lần được đề cập tới trong các cuộc tọa đàm, hội thảo về BLGĐ, mà hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm làm việc với nam giới gây BLGĐ” do Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học về giới, gia đình, phụ nữ và người chưa thành niên tổ chức vào tháng 9/2013 là một ví dụ. Tại hội thảo này, một chuyên viên của Cục TGPL Bộ Tư pháp đã cho biết: “Tới đây khi sửa Luật TGPL sẽ đưa thẳng nạn nhân BLGĐ vào danh sách đối tượng được TGPL thay vì phải chiểu theo Thông tư như hiện nay. Vì luật không quy định nên tại nhiều Trung tâm TGPL, việc TGPL cho nạn nhân BLGĐ nằm trong hoạt động bổ sung”.

Trao đổi với phóng viên bên lề hội thảo “Công tác bảo vệ nạn nhân và quy trình xử lý vụ việc BLGĐ” ngày 18/11 mới đây, bà Tạ Thị Minh Lý - nguyên Cục trưởng Cục TGPL, Bộ Tư pháp, hiện đang là Chủ tịch Hội Bảo trợ tư pháp cho người nghèo cho biết đang có sự hiểu chưa đúng, chưa chuẩn về vấn đề TGPL cho nạn nhân BLGĐ. 

Cụ thể, theo bà Tạ Thị Minh Lý, đúng là Luật TGPL hiện hành chỉ quy định 4 đối tượng, nhưng trong luật cũng có một điều khoản mở là: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó” (Điều 2 Luật TGPL). 

Đối với nạn nhân BLGĐ thì “điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” chính là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW) mà Việt Nam đã tham gia và có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 19/3/1982. 

Mặt khác, bên cạnh đó, Luật Phòng chống BLGĐ cũng có quy định nạn nhân BLGĐ có quyền được “cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật ” (Khoản 1 Điều 5).

Được biết, trước đây từ năm 2005 trong khuôn khổ thực hiện Dự án “Hỗ trợ hệ thống TGPL ở Việt Nam 2005 – 2009” cùng với một số đối tượng khác, phụ nữ là nạn nhân của BLGĐ cũng đã chính thức được hưởng TGPL miễn phí. 

Theo số liệu thống kê tại 5 tỉnh thực hiện thí điểm lồng ghép giới, thì trong tổng số vụ việc TGPL hàng năm, có trên 30% đối tượng TGPL là phụ nữ bị bạo hành, phụ nữ nghèo trong các vụ án ly hôn, tranh chấp dân sự, phụ nữ bị xâm hại tình dục hoặc là đại diện hợp pháp của trẻ em bị xâm hại tình dục… 

Như vậy có thể nói là nhu cầu được TGPL của nạn nhân BLGĐ là rất cao. Điều này cho thấy cần thiết phải sớm sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL theo hướng cụ thể hơn để tránh kéo dài tình trạng nạn nhân BLGĐ, nhất là phụ nữ, chưa được sự bảo vệ của chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Hủy kết quả đấu giá khu “đất vàng” ở Cần Thơ. Bài báo phản ánh: Liên quan đến vụ “Trúng đấu giá nhưng không nộp tiền” (Pháp Luật TP.HCM đã thông tin) ngày 25-11, một nguồn tin cho biết:

UBND TP Cần Thơ đã hủy kết quả bán đấu giá khu đất vàng hơn 6.700 m2 ở đường Võ Văn Kiệt để đấu giá lại. Hiện Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản (Sở Tư pháp TP Cần Thơ) đang thông báo để mời gọi các nhà đầu tư có năng lực tham gia đấu giá khu đất vàng nói trên.

Tháng 10-2012, Công ty CPXD Xuân Lan trúng đấu giá khu đất này với giá hơn 77 tỉ đồng. Theo quyết định của UBND TP Cần Thơ, tháng 12-2012, công ty phải hoàn tất nghĩa vụ nộp tiền nhưng đến tháng 10-2013, công ty chỉ nộp trên 15 tỉ đồng và đã phân 36 nền đất rao bán. Sau đó đã có 13 khách hàng góp vốn mua nền và đã nộp tiền 30%-50% trị giá nền.

Chiều 25-11, ông Nguyễn Xuân Tiến - Giám đốc Công ty CPXD Xuân Lan cho biết công ty chấp nhận việc hủy kết quả trúng đấu giá vì vay vốn không được. Công ty còn lấn cấn với 13 hợp đồng đã ký chuyển nhượng cho 13 hộ dân và mong Cần Thơ tạo điều kiện để công ty hoàn thành giấy tờ đất cho 13 trường hợp đã ký hợp đồng và tính toán trả lại tiền cho công ty.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trương Hồng Dự - Phó Chánh Văn phòng kiêm người phát ngôn của UBND TP Cần Thơ cho biết ủy ban đã chỉ đạo các cơ quan liên quan tham mưu giải quyết những vướng mắc sau khi hủy kết quả đấu giá để đảm bảo quyền lợi của người dân cũng như doanh nghiệp.

II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Quốc hội thảo luận 2 luật, thông qua 2 luật. Trong ngày làm việc thứ 29 kỳ họp thứ 6 (26/11), Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Đấu thầu (sửa đổi) và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi) và cho ý kiến về Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế.



File đính kèm