I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Phụ nữ Online có bài Bình Phước: Luật sư nhận tiền đương sự rồi... đóng cửa văn phòng. Ngày 21/11, ông Hoàng Kim Vinh, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư (LS) tỉnh Bình Phước đã ký quyết định xóa tên khỏi danh sách đối với LS Trần Minh Tấn vì vi phạm nghiêm trọng Luật LS, Quy tắc đạo đức hành nghề LS, Điều lệ Đoàn LS tỉnh Bình Phước.
Trước đó, Đoàn LS tỉnh Bình Phước đã nhận tám đơn thư khiếu nại của người dân tại tỉnh này, khiếu nại LS Trần Minh Tấn, Trưởng Văn phòng LS Tân Hùng (địa chỉ: huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước) đã lừa đảo, ký hợp đồng dịch vụ pháp lý, thu tiền nhưng không thực hiện công việc đã cam kết (không nộp tạm ứng để tòa thụ lý vụ án, không thực hiện công việc ủy quyền tham gia tố tụng…). Khi khách hàng liên hệ thì LS Tấn bỏ trốn, không trả lại tiền cho khách hàng. Tổng số tiền LS Tấn chiếm đoạt của người dân là hơn 240 triệu đồng. Sau khi phát hiện hành vi lừa đảo của LS Tấn, các đương sự đã tìm LS này để yêu cầu giải quyết, nhưng ông Tấn né tránh và đóng cửa văn phòng.
Theo Đoàn LS tỉnh Bình Phước, hành vi của LS Tấn có dấu hiệu vi phạm pháp luật, vì vậy, Đoàn LS sẽ phối hợp cung cấp hồ sơ cho cơ quan điều tra giải quyết theo quy định của pháp luật.
2. Báo Điện tử Một thế giới có bài Cho phép đám cưới đồng tính có “cầm đèn chạy trước ô tô”?. Bài báo phản ánh: 10 ngày trước, giới đồng tính tại Việt Nam đã reo mừng vì Nghị định số 110/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 11.11.2013 đã bỏ điều khoản về xử phạt kết hôn đồng tính từ 100 đến 500 ngàn đồng, buộc chấm dứt quan hệ trái pháp luật, từng quy định tại Điều 8 Nghị định 87/2001/NĐ-CP trước đây.
Vấn đề là cho đến tận 22.11, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn còn hiệu lực. Điều 10 của luật này đang cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Có phải không phạt nữa thì không còn cấm nữa và những người đồng tính trong thời gian này sẽ được phép đăng ký kết hôn? Hay vẫn cấm nhưng linh động… không phạt?
Vậy chẳng lẽ luật cấm kết hôn đồng tính, còn văn bản hướng dẫn luật này là Nghị định 110 lại không xử phạt? Trong khi các hành vi bị cấm kết hôn khác như đã có vợ, có chồng mà còn chung sống như vợ chồng với người khác… vẫn bị xử phạt, mức phạt lại tăng lên: từ 1 đến 3 triệu đồng.
Chúng ta hiểu việc Nghị định 110 bỏ xử phạt đối với những người vi phạm điều cấm kết hôn đồng tính như thế nào cho đúng? Có phải không phạt nữa thì không còn cấm nữa và những người đồng tính trong thời gian này sẽ được phép đăng ký kết hôn? Hay vẫn cấm nhưng linh động… không phạt?
Nguyên tắc pháp chế của nước ta không cho phép như thế. Đã cấm thì phải có biện pháp chế tài (phạt) người vi phạm để răn đe, trừng trị. Còn nếu không phạt thì phải sửa lại điều cấm, chuyển sang không còn cấm nữa thì mới không có cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” giữa luật và văn bản dưới luật.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không giải thích từ ngữ “kết hôn giữa những người cùng giới tính” là như thế nào. Trong khi Điều 8 của luật này lại giải thích:
- Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
- Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định.
Theo cách giải thích này, chỉ có nam và nữ mới thực hiện được việc kết hôn và cũng chỉ có hôn nhân giữa nam – nữ nhưng vi phạm điều kiện kết hôn mới được xem là hôn nhân trái pháp luật.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không hề đá động gì đến chuyện nam và nam, hoặc nữ và nữ đi đăng ký kết hôn. Như vậy có thể hiểu rằng ngay từ trong luật này đã bỏ trống nhóm đồng tính ra ngoài vòng quản lý của nhà nước rồi.
Cho đến bây giờ cũng chưa có văn bản nào ghi rõ cấm hai người đồng tính chung sống như vợ chồng với nhau cả.
Vậy đám cưới đồng tính dưới góc nhìn pháp luật có bị xem là trái luật, vi phạm điều cấm hay không? Xin thưa, hiện nay và sắp tới, nhà nước ta chỉ công nhận một loại hình thiết lập hôn nhân, đó là hôn nhân được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (trừ diện hôn nhân thực tế do hoàn cảnh lịch sử để lại). Mọi nghi thức kết hôn khác, từ đám cưới tại gia đình, nhà hàng, đám cưới tôn giáo… đều không được công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu không có đăng ký kết hôn.
Như vậy, rõ ràng là nhà nước không quản lý các đám cưới của công dân, trừ những trường hợp cưới xin mà cô dâu hoặc chú rễ còn quá nhỏ sẽ phạm vào điều cấm tảo hôn. Ngay cả một người chồng, người vợ đi tổ chức đám cưới với người khác giới khác cũng chưa chắc đã bị xử lý về hành vi “đã có vợ, có chồng mà còn chung sống như vợ chồng với người khác”, vì chỉ riêng đám cưới thì chưa đủ để cấu thành hành vi “chung sống như vợ chồng”. Đã có một thời khái niệm “chung sống như vợ chồng” được lý giải là nam và nữ chung sống một nhà, có con chung, có tài sản chung, được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng.
Theo cách lý luận này, những vụ chính quyền ra tay xử phạt đám cưới đồng tính trước đây, xét theo pháp luật là sai quy định. Nói cách khác, Nghị định 110 bỏ điều khoản về phạt “kết hôn giữa những người cùng giới tính” hoàn toàn không có gì mới và không phải là tháo khoán cho đám cưới đồng tính, bởi vì trước đây chính quyền một số địa phương đã có sự nhầm lẫn trong việc “phạt đám cưới đồng tính” với việc “phạt kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Hai khái niệm này khác nhau hoàn toàn. Và cho đến bây giờ cũng chưa có văn bản nào ghi rõ cấm hai người đồng tính chung sống như vợ chồng với nhau cả.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gần 40 năm không hộ khẩu, CMND. Bài báo phản ánh: Phường sẽ hỗ trợ tối đa để người dân có giấy tờ hợp lệ, không thể để tình trạng một người sống cả đời mà thiếu giấy tờ tùy thân.
Bà Trần Thị Hiền (hiện đang ở trọ tại đường Kha Vạn Cân, quận Thủ Đức, TP.HCM) đã gửi đơn nhờ báo Pháp Luật TP.HCM trợ giúp vì gần 40 năm nay bà không có giấy tờ tùy thân.
Theo bà Hiền, bà từng là trẻ mồ côi, sống trong Cô nhi viện Hòa Bình. Năm 1976, bà gia nhập thanh niên xung phong TP.HCM, thuộc Liên đội 10, đến ngày 15-1-1979 xuất ngũ. 10 năm sau, bà lập gia đình và có bốn người con. Cuộc sống gia đình không hạnh phúc nên bà không được nhập hộ khẩu vào gia đình chồng. Từ đó đến nay, đi đâu, làm gì, thậm chí đi chữa bệnh hay sinh con bà chỉ biết trình giấy chứng nhận là trẻ mồ côi hoặc giấy công nhận là thanh niên xung phong để làm bằng chứng.
Cũng do không có giấy CMND nên bà cũng không thể làm giấy khai sinh cho con cái của mình. Không có giấy tờ, các con bà cũng không thể đến trường.
Đặc biệt hơn, hiện nay con gái lớn của bà chuẩn bị lấy chồng, sợ con phải chịu cảnh như mẹ trước kia nên bà chạy khắp nơi, gõ cửa các cơ quan chức năng để xin làm giấy tờ nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu. Nhớ đến Cô nhi viện Hòa Bình, bà đạp xe xuống nhờ giúp đỡ. Tuy nhiên, nơi đây bảo người bảo lãnh để bà được vào cô nhi viện đã mất và hiện căn nhà của cô nhi viện đã giao cho người khác nên không thể giúp gì hơn.
“Trước đây, tôi được nhập hộ khẩu ở trong Cô nhi viện Hòa Bình (nay là số 3/5 Lê Đức Thọ, phường 13, quận Gò Vấp). Đi thanh niên xung phong về thì tôi không còn ở đây nữa mặc dù trong giấy khai sinh địa chỉ của tôi vẫn ở đó. Giờ đây tôi chỉ muốn mượn lại sổ hộ khẩu đi làm CMND để tiện cho việc đi lại, làm việc mà không được. Tôi không biết làm sao nữa” - bà Hiền than thở.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Thủ tướng trả lời thẳng thắn, xác đáng. Bài báo đưa tin: Sau phiên trả lời chất vấn của Thủ tướng, nhiều đại biểu ghi nhận và đánh giá cao sự tiếp thu nghiêm túc, trách nhiệm cao của người đứng đầu Chính phủ trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm: Tôi đánh giá cao phần giải trình và trả lời chất vấn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chiều nay (21/11).
Báo cáo giải trình thêm của Thủ tướng sau khi các Bộ trưởng đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nêu tương đối rõ các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước.
Giải trình của Thủ tướng phản ánh khách quan việc nào đã làm được, việc nào chưa làm được với các giải pháp rõ nét hơn, nhất là lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới.
Đại biểu Hà Sĩ Đồng (Đoàn Quảng Trị): Câu hỏi của tôi đã được Thủ tướng giải đáp cặn kẽ và xác đáng. Một nội dung tôi ghi nhận từ 2 năm qua là công tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh được Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ quan tâm thực hiện trong các phiên họp Chính phủ thường kỳ, phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật.
Tôi cũng kỳ vọng và tin tưởng vào giải pháp mà Thủ tướng nêu ra là sẽ khắc phục tư tưởng làm chính sách mà giải pháp chưa thống nhất để nâng cao chất lượng văn bản.
Tuy nhiên, tôi tiếc là thời gian dành cho Thủ tướng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội ngắn quá.
Lần sau, đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần sắp xếp thời gian hợp lý hơn để người đứng đầu Chính phủ đối thoại thỏa đáng với Quốc hội, nhằm tìm và làm sáng tỏ những giải pháp tháo gỡ các vướng mắc trong thực tiễn của kinh tế, xã hội đáp ứng được mong mỏi và nguyện vọng của cử tri.
Đại biểu Trương Văn Vở (Đoàn Đồng Nai): Qua báo cáo giải trình thêm và trả lời chất vấn của Thủ tướng, tôi thấy thể hiện trách nhiệm, nghiêm túc của người đứng đầu Chính phủ. Thể hiện ở chỗ một số vấn đề trọng tâm, “nóng” đã được đưa vào giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong năm 2014. Như vấn đề về “tam nông”, thúc đẩy đầu tư, an toàn của hồ chứa thủy điện, thủy lợi; giải quyết nợ xấu, đã nêu rõ lộ trình và giao trách nhiệm cho các bộ, ngành liên quan.
Qua báo cáo giải trình thêm và trả lời chất vấn của Thủ tướng, tôi thấy thể hiện trách nhiệm, nghiêm túc của người đứng đầu Chính phủ.
Thể hiện ở chỗ một số vấn đề trọng tâm, “nóng” đã được đưa vào giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong năm 2014. Như vấn đề về “tam nông”, thúc đẩy đầu tư, an toàn của hồ chứa thủy điện, thủy lợi; giải quyết nợ xấu, đã nêu rõ lộ trình và giao trách nhiệm cho các bộ, ngành liên quan.
Với những vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm, Chính phủ và Thủ tướng tiếp thu nghiêm túc, trách nhiệm, có chỉ đạo giao cho các bộ, ngành liên quan phải quan tâm xử lý như việc trồng cây cao su vượt quy hoạch của Bộ NNPTNT đã được Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận trách nhiệm.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tôi rất mong đợi Chính phủ sớm thể chế hóa các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhất là thực hiện thật nghiêm kỷ cương kỷ luật hành chính trong quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của các bộ, ngành, địa phương.
Đây là chính là 1 trong 3 giải pháp đột phá, mà chúng ta coi đột phá thể chế là quan trọng hàng đầu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực cho phát triển kinh tế của đất nước trong những năm tới. Điều này có ý quan trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Tôi hy vọng Thủ tướng sẽ ban hành quy chế về trách nhiệm của người đứng đầu trong lĩnh vực được phân công để làm rõ trách nhiệm cá nhân. Bởi đến nay vấn đề này vẫn chậm được ban hành. Qua đó, tránh tình trạng thành tích là của cá nhân, khuyết điểm là của tập thể.
Cụ thể, trong đột phá về thể chế cần quy rõ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu. Những điều này đã được nêu trong luật và cần sớm được thể chế hóa và thực thi nghiêm túc. Một trong những giải pháp cần được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ quan tâm là quản lý nhà nước theo quy hoạch như quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, nhất là quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm. Qua theo dõi, tôi thấy chưa an tâm trong việc chấp hành kỷ cương kỷ luật hành chính theo quy hoạch.
Giải trình và trả lời của Thủ tướng rất cô đọng, đưa ra một số giải pháp cụ thể của một số ngành, lĩnh vực như xây dựng nông thôn mới, phát triển thủy điện trong phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những giải pháp mà Thủ tướng đặt ra hôm nay cần được triển khai thực hiện một cách quyết liệt. Nhất là quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương có liên quan.
Đại biểu Nguyễn Văn Minh (TP Hồ Chí Minh): Cử tri và nhân dân rất mong mỏi, quan tâm trong năm 2014 nền kinh tế nước ta phát triển như thế nào? Những vấn đề đặt ra hiện nay như bão lũ, quy hoạch thủy điện để người dân có thể giảm thiệt hại đã được Thủ tướng gợi mở các giải pháp cho vấn đề này.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng để đạt được những gì như Thủ tướng nói và đáp ứng kỳ vọng của người dân thì đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt hơn, tập trung hơn của Thủ tướng đối với các bộ, ngành, địa phương, giao việc và quy trách nhiệm cụ thể , thúc đẩy bộ máy hành chính nhà nước “chạy” một cách hiệu quả, nếu không trong các Kỳ họp tới các đại biểu và cử tri lại chất vấn những vấn đề mà hôm nay chúng ta đang nhắc tới.
2. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin ĐBQH đánh giá các Bộ trưởng trả lời chất vấn. Bài báo phản ánh: Về phần trả lời chất vấn của các Bộ trưởng: NNPTNT, Nội vụ, Thông tin và Truyền thông, nhiều ĐBQH ghi nhận, các Bộ trưởng nắm chắc vấn đề ngành mình phụ trách, tuy nhiên hướng khắc phục chưa rõ, mới dừng ở mức tròn vai.
Về các vấn đề liên quan đến phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình, đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) cho rằng việc các cơ quan, doanh nghiệp đánh giá không cao năng lực trình độ của một bộ phận công chức là vấn đề cần suy nghĩ.
Đơn cử vấn đề thi tuyển cán bộ công chức, vừa qua Bộ Nội vụ đã siết lại, đánh trượt khá nhiều người, nhưng sau đó, Bộ lại cho phúc tra kết quả. Việc này nếu không khéo sẽ trở thành "sân sau" của tham nhũng. Thi tuyển cán bộ công chức, ngoài bằng cấp cần phải căn cứ cả năng lực và trình độ. Ví dụ bằng ngoại ngữ, vi tính chỉ là một tiêu chuẩn nhưng phải kiểm tra thực tế.
Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (An Giang): Phần trả lời của Bộ trưởng Bộ NNPTNT Cao Đức Phát ngắn gọn, đáp ứng yêu cầu đại biểu. Tuy nhiên, các giải pháp Bộ trưởng nêu ra để ngăn chặn giảm đà tăng trưởng của nông nghiệp và vấn đề tái cấu trúc nông nghiệp chưa đi vào lộ trình cụ thể, có tính khả thi. Trong khi việc tái cấu trúc nông nghiệp thực hiện còn chậm, do vậy, đòi hỏi phải có lộ trình rõ nét, có trọng tâm, trọng điểm.
Theo đại biểu Đinh Xuân Thảo (Hà Nội), Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son đã trả lời thẳng vào các vấn đề, thể hiện sự nắm chắc lĩnh vực mình quản lý, chỉ ra được nguyên nhân hiện trạng và hướng khắc phục.
Để đảm bảo chất lượng hơn trong khâu chất vấn, theo nhiều đại biểu Quốc hội, ngoài việc căn cứ theo tiêu chí số lần đăng đàn trả lời chất vấn của các Bộ trưởng thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nên cân nhắc các vấn đề đang được dư luận quan tâm để đưa vào nội dung chất vấn, đồng thời hạn chế việc cử các Bộ trưởng có liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm đi công tác trong thời gian chất vấn.
3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Thất vọng về trả lời của bộ trưởng. Bài báo phản ánh: Trong gần 200 ý kiến phản hồi của bạn đọc về phần trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình ngày 20-11, có nhiều ý kiến bày tỏ sự thất vọng vì cho rằng bộ trưởng còn né tránh thực tế về đội ngũ cán bộ công chức.
* Cử tri Phạm Đình Toàn (Q.4, thành phố Hồ Chí MInh): Chưa nhìn nhận yếu kém
Đại biểu hỏi bộ trưởng những câu hỏi rất cụ thể về tỉ lệ cán bộ công chức làm việc không hiệu quả, về chạy chức chạy quyền, về một số sự việc cụ thể, địa phương cụ thể.
Nhưng suốt phần trả lời, bộ trưởng cứ dẫn các nghị quyết văn bản ra để nói vòng vo. Cách trả lời như vậy quá chung chung, thái độ như vậy tôi nghĩ có phần chưa tôn trọng đại biểu và cử tri.
Những lời nhắc của chủ tọa - Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng - về phần trả lời của bộ trưởng có lẽ đã nói thay suy nghĩ của nhiều đại biểu và cử tri theo dõi.
Giống như Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói, nghị quyết trung ương đã chỉ ra việc chạy chức chạy quyền là có, chưa được khắc phục có nghĩa là có tiêu cực tham nhũng.
Trách nhiệm về chuyện cán bộ công chức yếu kém, về chạy chức chạy quyền dĩ nhiên ở vị trí tư lệnh lĩnh vực như bộ trưởng là phải có trách nhiệm.
Nhưng đại biểu, cử tri cũng đều rất hiểu trách nhiệm đó còn thuộc nhiều nơi khác, và có những yếu kém thuộc về thực tế, trình độ phát triển xã hội, đã được nghị quyết trung ương đề cập trước khi đại biểu chất vấn bộ trưởng. Do đó, chúng tôi sẽ bớt thất vọng hơn nếu yếu kém đó được bộ trưởng thẳng thắn nhìn nhận rõ thay vì cứ nói vòng vo.
* Ông Trần Thanh Sơn (phó chủ tịch HĐND thị trấn Phước Dân, Ninh Phước, Ninh Thuận): 1% là không thực tế
Nhiều năm công tác ở HĐND một địa phương, năm nào cũng đi giám sát chất lượng của cán bộ, công chức ở địa phương, tôi khẳng định không thể có chuyện chỉ 1% cán bộ, công chức yếu kém như bộ trưởng Bộ Nội vụ trả lời chất vấn.
Trong một phạm vi hẹp là cán bộ, công chức cấp xã, phường, phải đến 20-30% làm việc không hiệu quả, một số xã phường còn có thể cao hơn.
Tôi khẳng định xã, phường cũng là nơi tập trung cao nhất tỉ lệ cán bộ, công chức làm việc không hiệu quả. Điều này không khó nhận biết nếu bộ trưởng và các cơ quan giám sát cấp trung ương kiểm tra ngay chính báo cáo của HĐND về tình hình làm việc của công chức, cán bộ mỗi năm.
Việc cán bộ, công chức làm việc không hiệu quả ngoài yếu tố trì trệ, thiếu trách nhiệm ở mỗi người, còn có lỗi ở cơ chế. Cán bộ công chức cấp xã, phường lương rất thấp, phụ cấp không đáng kể, không có lũy tiến khi làm việc lâu năm nên không có động lực.
Cơ chế cần thay đổi là giảm biên chế và tăng lương để có động lực làm việc. Có thể chỉ nhận một người, trả lương cao mà làm việc hiệu quả còn hơn là có 2-3 người để đủ biên chế nhưng chỉ toàn cán bộ, công chức làng nhàng, sáng cắp ô đi tối cắp về như dư luận phản ảnh.
Nơi có thể giải quyết triệt để vấn đề này chính là các cơ quan trung ương, là Bộ Nội vụ, là chính bản thân bộ trưởng: bằng sự quyết liệt, bằng việc ban hành cơ chế hợp lý. Nhưng muốn có điều đó, trước tiên phải nắm rõ và dám nhìn thẳng vào thực tế yếu kém của một số không ít cán bộ, công chức.
* Cử tri Trần Đại Dũng (19 Bế Văn Đàn, Q.Tân Bình, TP.HCM): Bộ máy công quyền quá tốt?
Bộ trưởng cho rằng chỉ khoảng 1% cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, có nghĩa là 99% còn lại đạt yêu cầu! Nhưng theo tôi, sự thật không phải vậy. Nếu có một cuộc điều tra xã hội học ở bất cứ phạm vi nào, địa phương nào về sự hài lòng của người dân với thái độ, hiệu quả làm việc họ nhận được từ cán bộ, công chức, tôi nghĩ nhiều người dân sẽ bày tỏ sự không hài lòng.
Tôi cho rằng Bộ Nội vụ nên dành thời gian để rà soát xem có đúng là 30% cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ như Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng đặt vấn đề. Còn con số 1% mà bộ trưởng báo cáo có lẽ rất nhiều cử tri đều đồng ý rằng không cần kiểm chứng vì không đúng với thực tế.