Trong buổi sáng ngày 27/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn online phản ánh: Hiện nay không hiếm cảng ở ĐBSCL và miền Trung thường xuyên ở trong tình trạng thừa công suất do thiếu nguồn hàng, hoặc điều kiện hạ tầng ở ngoại vi thiếu đồng bộ. Về tổng thể, bản quy hoạch cảng biển được phê duyệt năm 1999 đã dự báo khá chính xác sự phát triển lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng. Ở thời điểm đó, các nhà làm quy hoạch dự báo đến năm 2010 tổng sản lượng xếp dỡ của các cảng sẽ đạt 200 triệu tấn, trong khi thực tế đạt 198 triệu tấn vào cuối năm ngoái. Tuy nhiên, dự báo nguồn hàng cho từng khu vực, cơ sở để lên kế hoạch đầu tư cụ thể, lại thiếu chính xác dẫn đến tình trạng nơi thì quá tải, nơi lại thiếu việc làm. Cho đến nay, khu vực miền Trung có 17 cảng biển đã được đưa vào khai thác, trong đó hầu hết các cảng mới được xây dựng trong 10 năm gần đây đều là những cảng nước sâu.
Cuối năm 2009 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ lại phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050. Bộ Giao thông Vận tải cho rằng bản quy hoạch này sẽ khắc phục được hầu hết những tồn tại cũ. Đồng thời, vai trò của các cảng trong hệ thống cảng biển quốc gia cũng được xác định rõ. Theo đó, cả nước có hai cảng tổng hợp quốc gia đóng vai trò cửa ngõ quốc tế là Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng Vân Phong - Khánh Hòa là cảng trung chuyển quốc tế duy nhất của Việt Nam. Các cảng lớn còn lại, như: Hòn Gai, Nghi Sơn, Nghệ An, Vũng Áng, Đà Nẵng, Dung Quất, Cần Thơ, cảng TPHCM được xác định là những đầu mối khu vực.
Ông Trần Doãn Thọ cho biết một điểm mới khác trong quy hoạch này là xác định lại tên gọi của các cảng. Chẳng hạn như khu vực TPHCM chỉ còn duy nhất một tên gọi là cảng TPHCM, và điều này cũng được áp dụng tương tự tại các vùng khác như Hải Phòng, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu… Ông nói: “Làm như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam quảng bá các thương hiệu cảng ra thế giới. Còn các cảng hiện hữu như cảng Sài Gòn, Tân cảng Sài Gòn, Bến Nghé, Hiệp Phước… chỉ đóng vai trò là những bến xếp dỡ hàng”. Về lâu dài, hướng đi này còn có thể tạo tiền đề để giải quyết tình trạng quản lý thiếu đồng bộ và đầu tư chồng chéo, giẫm chân nhau ở từng khu vực. Điểm đáng chú ý nhất là vấn đề đồng bộ trong quy hoạch. Ông Thọ khẳng định: “Trước đây, chúng ta làm quy hoạch cảng là chỉ nghĩ đến phạm vi giới hạn của khu cảng. Lần này, quy hoạch được thực hiện đồng bộ, bao gồm cả hệ thống đường bộ, đường sắt để kết nối cảng với nguồn hàng, cùng với hệ thống hạ tầng dịch vụ cần thiết khác như hệ thống điện, cấp nước, viễn thông và khu vực logistics để phục vụ cho hoạt động lưu giữ, vận chuyển, xếp dỡ hàng hóa…”.
Quan điểm này đang được Bộ Giao thông Vận tải thực hiện với chương trình đầu tư cảng mới ở Bà Rịa - Vũng Tàu. “Cùng với dự án xây dựng cảng Cái Mép - Thị Vải, bộ đã chỉ đạo đầu tư mở rộng quốc lộ 51 và thay đổi hướng của dự án xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Phú Mỹ - Vũng Tàu”, ông Thọ nói. Bộ Giao thông Vận tải dự báo, tổng nhu cầu đầu tư đến năm 2020 theo đề án quy hoạch này khoảng 360.000-440.000 tỉ đồng, trong đó phần dành để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông kết nối và dịch vụ hậu cần khoảng 70.000-100.000 tỉ đồng. Có thể thấy, đề án quy hoạch phát triển cảng biển này đã khắc phục được nhiều nhược điểm so với trước đây. Nhưng vấn đề đặt ra là khâu quản lý sẽ được thực hiện như thế nào để bảo đảm tinh thần chung của quy hoạch không bị phá vỡ.
Việc định lại tên tuổi của các thương cảng là ý tưởng tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ sớm giải quyết được sự thiếu đồng bộ và chồng chéo trong việc quản lý, đầu tư ở từng khu vực. Dù đề án quy hoạch xác định, từng cảng riêng lẻ chỉ còn đóng vai trò như những bến xếp dỡ hàng, nhưng thực tế đây vẫn là những pháp nhân độc lập, có đường hướng kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển riêng. Chính vì vậy, khó mà hy vọng bản quy hoạch này giúp giải quyết được những bất cập lâu nay về vấn đề quản lý, ít nhất trong trong giai đoạn trước mắt.Bên cạnh đó, đề án này cũng chưa cho thấy một hướng ra nào sáng sủa cho tình trạng “đói hàng” của các cảng biển ở miền Trung. Theo quy hoạch, các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa đều có những thương cảng tổng hợp cấp quốc gia, với vai trò là đầu mối khu vực. Như vậy, liệu có cần nhiều đầu mối khu vực đến mức đó không?
Theo Bộ Giao thông Vận tải, nguồn hàng cho các cảng biển ở miền Trung trong 5-10 năm tới sẽ gia tăng rất nhanh. Bộ dự báo, đến 2015 lượng hàng hóa thông qua các cảng khu vực này vào khoảng 173-226 triệu tấn, chiếm hơn một phần ba của cả nước. Đến năm 2020, tức 10 năm nữa, sẽ lên đến 355-458 triệu tấn (cả nước khoảng 0,9-1,1 tỉ tấn). Dự báo nguồn hàng ở miền Trung tăng mạnh là có cơ sở, vì với sự ra đời của các nhà máy lọc dầu Dung Quất, Nghi Sơn cùng những dự án luyện cán thép và nhà máy nhiệt điện, nhu cầu vận chuyển than, dầu thô, tinh quặng sắt sẽ rất lớn. Tuy vậy, những dự án này thường được xây dựng cùng với những cảng chuyên dùng riêng, nên sẽ chẳng giúp ích nhiều cho các cảng tổng hợp hiện hữu. Đó là chưa nói mức độ khả thi của những con số dự báo. Trong quá khứ, Việt Nam phải mất sáu năm để nâng gấp đôi sản lượng hàng hóa qua các cảng, từ khoảng 100 triệu lên 200 triệu tấn. Để đạt được mức 0,9-1,1 tỉ tấn vào 2020, trong 11 năm tới bình quân mỗi năm phải tăng thêm ít nhất 63 triệu tấn. Điều này không dễ chút nào, nhất là khi nhiều dự án có nhu cầu nhập, xuất nguyên liệu và thành phẩm lớn, như luyện cán thép, đến nay vẫn còn nằm trên giấy.
2. Báo điện tử Chính phủ phản ánh: Trong cuộc họp chiều 26/1, dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, Bộ Công an, TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã phản ánh nhiều vấn đề vướng mắc sau hơn 2 năm thực hiện hệ thống pháp luật về cư trú, đặc biệt kể từ khi Luật cư trú có hiệu lực từ 1/7/2007.
Theo Bộ Công an, một số quy định của Luật cư trú chưa thật sự phù hợp và tạo kẽ hở dễ bị lợi dụng. Đơn cử việc cho phép đăng ký thường trú vào chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng không quy định diện tích tối thiểu là bao nhiêu m2/người nên xảy ra một số trường hợp 1 nhà cho nhiều hộ, nhiều người nhập hộ khẩu dù thực tế những người này không cư trú tại đây. Tương tự, quy định những người vào làm trong các doanh nghiệp theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn thì được đăng ký thường trú vào thành phố trực thuộc Trung ương cũng bị lợi dụng để nhập “chui” hộ khẩu.
Sau hơn 1 năm thực hiện Nghị định 107/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cư trú, công an các địa phương đã giải quyết cấp hơn 755.000 sổ hộ khẩu, trong đó đăng ký thường trú cho 519.000 hộ gia đình với 2,4 triệu nhân khẩu, được đánh giá là con số đột biến so với thời gian trước đó. Báo cáo của TP. Hà Nội cho biết, trong thời gian thực hiện Luật Cư trú, thành phố đã đăng ký thường trú cho gần 98.959 trường hợp và 164.921 nhân khẩu từ địa phương khác về, tăng gần gấp 2 lần so với thời gian trước đó. Còn tại TP.HCM, số nhân khẩu từ tỉnh ngoài chuyển về đăng ký thường trú theo Luật cư trú lên tới gần 300.000 người. Ngoài ra, thành phố đang quản lý tạm trú 2 triệu nhân khẩu đang phải ở nhà thuê, hàng trăm ngàn trường hợp ở “chui”, chưa có hồ sơ quản lý.
Trước tình hình này, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ Công an làm đầu mối rà soát những gì bất cập, chưa phù hợp để trình Chính phủ sửa đổi với mục tiêu quản lý dân cư tốt hơn, phù hợp với khả năng và kế hoạch, quy hoạch xây dựng đô thị, hạ tầng. Trong thời gian chờ có điều kiện để sửa Luật, chậm nhất đến quý II/2010, các Bộ, ngành liên quan thống nhất trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn chi tiết về quản lý cư trú. Theo đó, nghiêm cấm hành vi cho người khác đăng ký vào chỗ ở của mình để trục lợi, quy định cụ thể thời gian sinh sống tại nơi đăng ký, diện tích theo m2/người đối với nhà ở cho người khác nhập hộ khẩu. Sửa đổi điều kiện thời gian đối với người đã tạm trú được đăng ký thường trú. Bên cạnh đó, Bộ Công an cũng sớm trình bổ sung Nghị định 150/2005/NĐ-CP theo hướng quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định về cư trú cho phù hợp với Luật và tình hình thực tế hiện nay.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vnexpress Xét thu nhập để cấp hộ khẩu Hà Nội khó khả thi. Bài báo phản ánh: "Tôi không thể tưởng tượng được một thành phố chỉ toàn người có bằng cấp cao, thu nhập cao. Không có người lao động thì ai trực tiếp sản xuất, kinh doanh và làm các dịch vụ cho thành phố?", Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết bày tỏ quan điểm về dự thảo Luật Thủ đô.
Luật Thủ đô được xây dựng nhằm tạo hành lang pháp lý, trong đó có một số cơ chế đặc thù, để Hà Nội phát triển mạnh hơn, nhanh hơn, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Tuy nhiên, các quy định, cơ chế đặc thù phải phù hợp với Hiến pháp và thống nhất với hệ thống pháp luật VN, phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Các quy định ngặt nghèo về hộ khẩu trong dự thảo Luật Thủ đô có thể xuất phát từ sự lúng túng trước bài toán dân số đông, tắc đường, vệ sinh và nếp sống văn hóa kém...
Chúng ta phải phân tích xem nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng trên là gì. Có phải do người nhập cư hay không? Trước hết, cần thấy dân số tăng có nguyên nhân từ việc mở rộng Hà Nội. Nếu trước đây người dân Hà Tây cũ, Hòa Bình, Mê Linh chỉ cần đến tỉnh lỵ giao dịch với các cơ quan chính quyền thì nay họ phải về nội đô Hà Nội hoặc về quận Hà Đông giao dịch. Đó cũng là một nguyên nhân gây quá tải giao thông đô thị. Việc thủ đô mở rộng với số người đông hơn, số vùng chậm phát triển nhiều hơn cũng tạo ra khó khăn trong phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Đáng lẽ ra những vấn đề này cần được tính kỹ hơn trước khi quyết định mở rộng thủ đô.
Nhưng đổ lỗi hết cho người nhập cư hoặc người thu nhập thấp chắc chắn là không đúng. Ở nước nào, thời nào cũng vậy, thủ đô là nơi hội tụ anh tài bốn phương và chính những người con từ khắp miền đất nước đã góp phần không nhỏ xây dựng nên truyền thống của thành phố đầu não, thành phố tiêu biểu cho văn minh của một nước. Dẫn chứng dễ thấy nhất là nhiều vị lãnh đạo thành phố, nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, doanh nhân và người lao động tiêu biểu đang sinh sống ở Hà Nội và có những đóng góp xuất sắc cho thủ đô hiện nay không phải là người gốc thủ đô. Nhiều người trong số họ xuất thân từ những gia đình lao động nghèo. Giả sử từ xưa chính quyền thành phố hạn chế người nhập cư, người có thu nhập thấp về thủ đô thì họ đâu có cơ hội cống hiến hôm nay ? Vả lại, tôi cũng không thể tưởng tượng được một thành phố chỉ toàn người có bằng cấp cao, thu nhập cao. Không có những người lao động thì ai trực tiếp sản xuất, trực tiếp kinh doanh và làm các dịch vụ cho thành phố ? Cha ông ta đã từng răn "Nhất sĩ nhì nông ..." kia mà.
Dự thảo Luật quy định người lần đầu nhập hộ khẩu thủ đô phải tạm trú 5 năm tại Hà Nội và có việc làm hợp pháp với mức lương ít nhất bằng 2 lần mức lương tối thiểu là không phù hợp với Hiến pháp và Luật Cư trú. Hiến pháp quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, mọi công dân đều có quyền tự do cư trú trong lãnh thổ Việt Nam. Tôi phải khẳng đinh là khi xây dựng Luật Cư trú, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận rất kỹ, đặc biệt tính tới đặc thù của các thành phố lớn, chứ không phải chỉ xem xét đại khái để bây giờ phải quy định lại điều này.
Với quy định phải tạm trú 5 năm mới được nhập hộ khẩu, mà người tạm trú lại phải có giấy phép lao động mới được làm việc tại thủ đô, tôi thấy trước là sẽ lại diễn ra cái vòng luẩn quẩn như chuyện nhà và hộ khẩu trước đây - có hộ khẩu mới được quyền sở hữu nhà nhưng nếu không có chứng nhận sở hữu nhà thì không được nhập hộ khẩu. Quy định lương gấp 2 lần lương tối thiểu mới được xét nhập khẩu cũng khó khả thi. Ngay đối với người làm việc ở cơ quan, doanh nghiệp nhà nước cũng khó biết họ thu nhập bao nhiêu, vì ngoài lương, hầu hết công chức, viên chức đều phải làm thêm mới đủ sống. Còn đối với người làm việc ở doanh nghiệp tư nhân thì hỏi thu nhập bao nhiêu lại càng khó.
Theo quan điểm của tôi, quản lý người dân bằng hộ khẩu là cách làm lạc hậu, trước sau gì cũng phải bỏ. Đó là sản phẩm của thời bao cấp. Trong cơ chế thị trường, người ta di chuyển nhiều, làm việc nay đây mai đó; "khóa" bằng hộ khẩu vừa làm thiệt cho người dân vừa làm thiệt đất nước. Thử tưởng tượng xem, nếu "khóa" người ta bằng hộ khẩu thì ai còn muốn lên miền núi, đến vùng sâu vùng xa công tác nữa ? Bởi đến đó là bị "khóa" luôn, không biết bao giờ mới được về. Nếu quản lý bằng thẻ cư trú, ta có thể thu hút cán bộ dễ dàng hơn.
Phải nói rằng trên thế giới có rất ít nước quản lý công dân bằng hộ khẩu. Ở nước ta, ngay từ những năm đầu hoạt động của Quốc hội khóa XI, tôi đã kiến nghị bỏ hộ khẩu và được nhiều đại biểu QH ủng hộ. Luật Thủ đô soạn cho tương lai lâu dài mà dựa trên một quy định đã lạc hậu như quy định về hộ khẩu là không ổn. Trong dự thảo Luật Thủ đô còn có quy định giao thẩm quyền cho Chính phủ quy định mức phạt vi phạm hành chính trên địa bàn thủ đô cao hơn các tỉnh. Theo tôi, điều này không hợp lý. Việt Nam không phải là một nhà nước liên bang nên không thể quy định thủ đô phạt thế này mà tỉnh khác phạt thế khác. Mức phạt vẫn phải theo quy định chung. Còn việc điều chỉnh mức phạt ấy như thế nào cho đủ sức răn đe nhưng vẫn phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và thu nhập của người dân lại là chuyện khác. Dự thảo Luật Thủ đô cho phép UBND thành phố đưa ra những quy định đặc thù như hạn chế phương tiện cá nhân, chính sách về giải phóng mặt bằng,... Theo tôi, giao cho thủ đô một số cơ chế đặc thù là cần thiết. Tuy nhiên, các quy định đưa ra phải phù hợp với quy định của Hiến pháp và không làm xô xệch hệ thống pháp luật.
Để thủ đô văn minh, hiện đại hơn, tôi cho rằng thành phố cần làm tốt công tác quy hoạch đô thị. Cần chỉnh trang đường giao thông, đường điện, hệ thống cấp thoát nước... Cần suy tính kĩ trước mỗi chủ trương, dự án, đừng để việc nọ ảnh hưởng đến việc kia, như việc cho xây nhiều chung cư cao tầng trong nội thành cũ dẫn đến hậu quả dân cư tăng lên, hạ tầng không đáp ứng được, gây ách tắc giao thông,... Quản lý một đô thị rộng lớn vào bậc nhất thế giới như Hà Nội thì không thể "chơi cờ từng nước" được. Thành phố cũng cần chăm lo nhiều hơn nữa tới nếp sống của người dân. Thủ đô là thành phố tiêu biểu cho cả nước, song nếp sống của người dân, nếp làm việc của các cơ quan chính quyền hiện nay không cao hơn các địa phương khác. Trong dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội này, tôi mong thành phố có kế hoạch, biện pháp hữu hiệu làm chuyển biến ý thức của người thủ đô, cán bộ thủ đô. Người thủ đô phải văn minh, lịch thiệp. Cán bộ thủ đô phải gương mẫu trong nếp sống và trong phục vụ nhân dân, thực thi chính sách, pháp luật. Tôi thấy điều này ở Đà Nẵng đang làm có hiệu quả. Đi trên đường phố, từ người lái xe ôm cũng biết khẩu hiệu "5 không 3 có" của thành phố. Và quả thực, người dân Đà Nẵng đang biến ước mơ xây dựng một thành phố phát triển, văn minh thành hiện thực từng ngày.
Là người dân thủ đô (và có gốc gác lâu đời ở thủ đô), tôi thấy người thủ đô chúng ta nên học hỏi người anh em miền Trung này.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lên mạng tìm văn bản: Trật như chơi. Bài báo phản ánh: Văn bản mới đã có hơn một năm nhưng đến giờ các trang web chuyên ngành vẫn chưa cập nhật. Dù lệ phí khác với phí nhưng trang web của Bộ Tư pháp lúc ghi phí công chứng, lúc ghi lệ phí công chứng. Cách đây một tuần, tôi có vào website của Sở Tư pháp TP.HCM (sotuphap.hochiminhcity.gov.vn) để tìm hiểu số tiền phải đóng khi muốn đi công chứng hợp đồng nhà đất. Nhấp chuột vào mục “lệ phí” ở góc trái và liền sau đó là mục “lệ phí công chứng”, tôi có ngay kết quả là Thông tư liên tịch số 93/2001 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp.
Tưởng vậy là xong nhưng chợt nhớ một người bạn có kể về số tiền khá cao đã đóng cho phòng công chứng nọ nên tôi đâm ra nghi ngờ: Còn có văn bản nào khác nữa không? Để xác tín, tôi vào trang web của UBND TP.HCM (hochiminhcity.gov.vn) và nhấp ngay vào phần “công báo TP.HCM” ở góc trái. Chọn mục “văn bản theo lĩnh vực” vì thấy có vẻ phù hợp với nhu cầu của mình, tôi tiếp tục chọn lĩnh vực “công chứng-chứng thực”. Nhưng rất tiếc, trả lời tôi là hàng chữ “chưa có văn bản nào có thông tin lĩnh vực”.
Không dễ dàng thua cuộc, tôi vào trang web hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Văn phòng Quốc hội (vietlaw.gov.vn) mà lâu nay tôi vẫn hay vào và cũng đã nhiều lần có được kết quả như mong muốn. Chọn từ khóa “công chứng” và loại văn bản là “thông tư liên tịch”, tôi cũng chỉ tìm thấy cái mới nhất là Thông tư 93/2001. Cẩn thận hơn nữa, tôi tiếp tục vào website của Bộ Tư pháp (moj.gov.vn) và nhấp vào phần “công chứng”. Thấy mục “phí công chứng”, tôi nhấp vào và nhìn thấy ngay “mức thu lệ phí công chứng” (?). Tức thì Thông tư 93/2001 cũng hiện ra và không còn cái nào khác hơn. Tới đây thì tôi cảm thấy yên tâm và định bụng cứ theo văn bản đó mà làm. Đến khi tình cờ gọi điện thoại cho một công chứng viên, tôi mới biết mình đã… nhầm to! Thông tư liên tịch 93/2001 đã hết hiệu lực vào cuối năm 2008 và tại thời điểm này thì Thông tư liên tịch 91/2008 đang có hiệu lực mà theo đó, khoản thu trong công chứng không còn là lệ phí công chứng mà là phí công chứng.
Đáng lưu ý là mức thu mới cao hơn nhiều lần so với mức thu cũ. Như đối với hợp đồng mua bán căn nhà trên 1 tỉ đồng, quy định cũ là 500.000 đồng/hợp đồng; quy định mới là 1 triệu đồng cộng 0,07% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 1 tỉ đồng; đối với hợp đồng ủy quyền, quy định cũ là 20.000 đồng, quy định mới là 40.000 đồng v.v… Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi đem quy định cũ ra thương thảo với khách hàng, hoặc nếu tôi đang làm dịch vụ tư vấn cho nhiều người khác? Chắc chắn là tôi sai, là tôi phải xin lỗi, thậm chí có thể phải móc tiền túi ra bồi thường. Nhưng còn các chủ nhân đầy uy tín của các trang web trên, vì sao lại quên cập nhật văn bản mới trong lĩnh vực mình phụ trách để có thể gây bé cái nhầm cho nhiều người truy cập?
Thêm một chi tiết nữa cần đề cập, đó là lệ phí khác với phí (lệ phí do cơ quan nhà nước thu khi thực hiện công việc quản lý nhà nước; phí do cá nhân, tổ chức thu khi cung cấp dịch vụ). Đây chính là lý do mà sau này khi tôi gõ từ khóa lệ phí công chứng vào vietlaw.gov.vn, kết quả hiện ra là Thông tư 93. Nhưng khi tôi gõ từ khóa phí công chứng thì kết quả hiện ra là Thông tư 91. Nhiều người dân có thể không quan tâm đến sự khác biệt trên vì gọi cách nào thì bản thân cũng phải móc tiền ra đóng. Nhưng cơ quan chức năng cấp cao như Bộ Tư pháp không được phép nhầm lẫn hai khoản thu này.
Báo cũng có bài Cầm đèn chạy trước ôtô. Bài báo phản ánh: Tính đến thời điểm này, hàng loạt cầu thủ trong chủ trương nhập tịch của các CLB cho mùa 2010 đều bị “tắc” ở hồ sơ do phải chờ đợi nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đang hoàn thiện và sắp ban hành.
Và dù “tuýt còi” VFF việc hạn chế cầu thủ nhập tịch ra sân nhưng về bản chất thì việc siết lại quy định nhập tịch cũng là một cách Bộ Tư pháp ủng hộ sự phát triển của bóng đá Việt Nam, tránh hiện tượng nhập tịch tràn lan để đá bóng và lách luật, lách quy chế. Thế nhưng nhiều CLB lại đang “cầm đèn chạy trước ôtô” dù hồ sơ nhập tịch của cầu thủ đội bóng mình chưa có kết quả chính thức. Điển hình, nhìn vào danh sách đăng ký của các CLB thấy rất nhiều cái tên Việt được đăng ký cho cầu thủ ngoại như một kiểu giữ chỗ chờ quyết định.
Xem chừng kế hoạch này đang bị phá sản nặng nề bởi ngoài những cầu thủ nhập tịch ở mùa 2009 thì đến nay vẫn chưa có một cầu thủ nào được ký duyệt.
3. Báo Sài Gòn giải phóng online có bài Vì sao 4 bản án có hiệu lực bị… vô hiệu hóa?. Bài báo phản ánh: Mới đây, ông Trần Anh Chương, ngụ tại 18/32A đường Tăng Bạt Hổ, phường 11, quận Bình Thạnh (TPHCM) tiếp tục đến Báo SGGP kêu cứu về việc tòa án các cấp đã ban hành 4 bản án có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành khiến gia đình ông không còn biết bám víu vào đâu…
Năm 2006, ông Trần Anh Chương mua căn nhà số 44 Cao Thắng, phường 17, quận Phú Nhuận (TPHCM) của ông Vũ Nguyên Lăng với giá 2 tỷ đồng. Sau khi công chứng và trả tiền nhà xong, ông Chương đến nhận nhà thì bị bà Phan Thị Ngân (người ở nhờ tầng trệt nhà ông Lăng) đòi đưa thêm 900 triệu đồng!? Ông Chương không chấp nhận và kiện bà Ngân ra tòa. Kết quả, Bản án Dân sự sơ thẩm số 137 ngày 30-7-2007 của TAND quận Phú Nhuận và Bản án phúc thẩm số 1533 ngày 28-12-2007 của TAND TPHCM cùng tuyên: “Chấp nhận việc đòi một phần nhà của ông Chương, buộc bà Ngân và những người ở tầng trệt phải giao nhà cho ông Chương…”. Tuy nhiên, ngày 9-4-2008, do UBND quận Phú Nhuận có văn bản gửi TAND Tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đề nghị xem xét lại hai bản án nói trên nên Tòa án Dân sự TAND Tối cao ra quyết định hủy hai bản án này và giao cho TAND quận Phú Nhuận xét xử lại.
Vào giữa năm 2009, TAND quận Phú Nhuận xét xử lại lần 2 và vẫn tuyên ông Chương thắng kiện. Bà Ngân lại tiếp tục kháng cáo và TAND TPHCM mở phiên tòa phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm. Cả 4 phiên tòa (2 sơ thẩm, 2 phúc thẩm) đều căn cứ vào nguồn gốc căn nhà do nhà nước quản lý và cho ông Lăng thuê ở từ năm 1980. Sau đó ông Lăng mua hóa giá căn nhà này theo Nghị định 61/CP và đã được cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất. Do ông Lăng có giấy tờ hợp lệ nên ông Chương mua nhà theo đúng quy định pháp luật, vì thế, tòa công nhận giao dịch này. Về phía bà Ngân, là người ở nhờ nhà ông Lăng, tuy có đưa ra giấy “chia 1/2 số vàng” với ông Lăng và “đơn xin bảo lãnh” nhập hộ khẩu của ông Lăng cùng một số giấy viết tay khác… nhưng Hội đồng xét xử đã bác bỏ, buộc bà Ngân cùng những người trong gia đình phải giao tầng trệt cho ông Chương.
Căn cứ bản án phúc thẩm của TAND TPHCM, ngày 1-10-2009, Thi hành án quận Phú Nhuận ra Quyết định số 05 buộc bà Ngân phải giao nhà cho ông Chương. Quyết định của Tòa án sắp được thi hành thì ngày 18-12-2009, UBND TPHCM lại có công văn số 6806 chỉ đạo: “Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận hủy bỏ việc bán nhà số 44 Cao Thắng, Q.PN và thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lăng…”. Lý do, ông Lăng đã được tạm cấp một mảnh đất tại quận Thủ Đức và đã được hưởng chính sách nhà đất theo quy định của Nghị định 61/CP. Về việc này, UBND quận Thủ Đức đã có văn bản xác nhận mảnh đất tạm cấp cho ông Lăng do Công ty Vật tư xây dựng công trình 624 quản lý và chưa chuyển giao cho quận Thủ Đức. Chấp hành sự chỉ đạo của lãnh đạo TP, ngày 6-1-2010, UBND quận Phú Nhuận đã có Quyết định số 01/QĐ-UB về việc “Hủy bỏ việc bán nhà số 44 đường Cao Thắng, phường 17, quận Phú Nhuận và thu hồi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất đối với căn nhà trên của ông Vũ Nguyên Lăng…”.
Đồng chí Phạm Công Nghĩa, Bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận Phú Nhuận kiêm Trưởng ban chỉ đạo Thi hành án quận Phú Nhuận, cho biết: “Trước hết quận vẫn phải chấp hành sự chỉ đạo của cấp trên, dù vẫn biết anh Chương là người mua nhà đúng pháp luật nhưng vướng phải rắc rối. Quận sẽ tiếp tục xem xét lại vấn đề này…”. Như vậy, ông Chương là người thắng kiện nhưng vẫn bị… thua cuộc.
Tại Điều 19 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 đã quy định rõ: “Bản án, quyết định của tòa đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan… tôn trọng và có nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành…”. Thế nhưng, đến nay mặc dù tòa đã có 4 bản án xét xử công minh, phán quyết rõ ràng, nhưng cả 4 bản án đều bị … “vô hiệu hóa” và không được thi hành chỉ vì có công văn của các cấp chính quyền “ngáng đường”. Theo Luật sư Vĩnh Đại, Đoàn Luật sư TPHCM: “Việc UBND TP ra quyết định thu hồi GCNQSDĐ của ông Lăng là thiếu cơ sở, nếu ông Lăng mua hóa giá nhà sai thì sao không xem xét thu hồi ngay từ đầu (hồi năm 2006) mà phải đợi đến khi có tới 4 bản án có hiệu lực thì mới yêu cầu thu hồi? Về nguyên tắc, UBND TP chỉ có thể có công văn yêu cầu cơ quan Thi hành án tạm ngưng thi hành án, còn quyết định thu hồi chủ quyền nhà đất thì phải do tòa quyết định. Khi ban hành quyết định cũng cần xem ai là người có đủ thẩm quyền khiếu nại. Thực tế bà Ngân không phải là người đứng chung hợp đồng thuê nhà và hóa giá nhà với ông Lăng, hộ khẩu của bà Ngân (gồm 6 nhân khẩu) cũng đã bị công an quận Phú Nhuận yêu cầu cắt đi nơi khác, do đó bà Ngân không đủ tư cách khiếu nại…”.
Chưa hết, ông Chương còn chứng minh bà Ngân đã có giấy phép mua bán chuyển dịch chủ quyền nhà ở số 50 đường Nơ Trang Long, phường 13, quận Bình Thạnh từ năm 1989; bản thân bà còn dính líu đến vụ án “chứa gái mại dâm”… Việc bà Ngân “vin cớ” có cha chồng là liệt sĩ để đi kiện là thiếu cơ sở. Trước sự việc éo le này, ngày 18-1-2010, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TPHCM đã có công văn số 05 kiến nghị Chủ tịch UBND TPHCM xem xét lại nội dung công văn số 6806 của UBND TPHCM, theo đó nêu rõ: “Việc UBND TP chỉ đạo UBND quận Phú Nhuận thu hồi quyết định cấp GCNQSDĐ căn nhà 44 Cao Thắng đối với ông Vũ Nguyên Lăng là chưa phù hợp vì đã làm vô hiệu hóa các quyết định của tòa án các cấp đã có hiệu lực pháp luật… gây cản trở việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ông Lăng và ông Chương…”.
4. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Sáng 26-1, Bộ Quốc phòng tổ chức rút kinh nghiệm công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2009, triển khai công tác năm 2010. Thượng tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị.
Năm 2009, việc soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có tiến bộ vượt bậc. Kế hoạch soạn thảo văn bản đăng kí với Chính phủ đạt 100%; kế hoạch soạn thảo văn bản thuộc thẩm quyền của Bộ Quốc phòng đạt 120% so với kế hoạch. Công tác xây dựng, soạn thảo văn bản đi vào nền nếp, bảo đảm đúng trình tự, thủ tục, được thẩm định trước khi trình kí. Các cơ quan, đơn vị được giao chủ trì soạn thảo đã quán triệt tốt các quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy chế làm việc của Bộ Quốc phòng; tổ chức soạn thảo đúng trình tự, thủ tục; phù hợp với tình hình kinh tế xã hội và yêu cầu quản lí, chỉ huy của quân đội, đúng quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước. Tính đến 31-12-2009, Bộ Quốc phòng đã xây dựng, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua 1 dự án luật (Luật Dân quân Tự vệ); trình Chính phủ kí, ban hành 8 nghị định. Năm 2010, Bộ Quốc phòng giao các cơ quan, đơn vị quân đội soạn thảo, đề nghị Chính phủ đưa vào chương trình soạn thảo văn bản 1 dự án luật, 1 dự án pháp lệnh; 11 nghị định, 7 quyết định, 24 thông tư liên tịch, 97 thông tư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 40 tiêu chuẩn quốc gia trong lĩnh vực quân sự.
5. Trang web của Thông tấn xã Việt Nam có bài TP.HCM mời kiều bào góp ý về Luật quốc tịch. Bài báo phản ánh: Những thắc mắc, góp ý của kiều bào về Luật Quốc tịch và Luật Sở hữu nhà ở sẽ được tiếp nhận và trực tiếp giải đáp trong cuộc gặp gỡ vào ngày 31/1 tới tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài - đơn vị tổ chức cho biết đã có hơn 600 đại diện kiều bào từ các quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký tham dự cuộc gặp này.
Theo bà Lương Bạch Vân, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, lãnh đạo và các chuyên gia, luật sư của Bộ Tư pháp, Ban chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Tài nguyên-Môi trường, Sở Tư pháp, Sở Xây dựng... sẽ trực tiếp tiếp nhận những đề nghị và giải đáp thắc mắc, kiến nghị của kiều bào xung quanh việc thực hiện Luật Quốc tịch (sửa đổi) và Luật Sở hữu nhà ở.
Tại các bàn tư vấn trực tiếp ở cuộc tọa đàm, các luật gia, chuyên viên tư vấn và luật sư cộng tác viên của Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài cũng sẽ tư vấn, giải đáp thắc mắc của kiều bào xung quanh hai luật trên đồng thời hướng dẫn các thủ tục hành chính và pháp lý cần thiết cho kiều bào.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hệ thống các ban liên lạc thân nhân Việt kiều, với khoảng 2.000 thành viên tình nguyện, đã thiết lập một kênh thông tin liên lạc hiệu quả với kiều bào ở nhiều nước, xây dựng một trung tâm hỗ trợ để giúp kiều bào tìm hiểu cơ hội làm ăn, chính sách pháp luật và các chính sách bảo vệ quyền lợi của họ.
Theo Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài Thành phố Hồ Chí Minh, dự kiến sẽ có khoảng 500.000 kiều bào về Việt Nam đón Tết Nguyên Đán qua cửa khẩu Tân Sơn Nhất.