I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người Lao động có bài Tù oan, gian nan đòi bồi thường. Bài báo phản ánh: Sau khi ngồi tù 35 tháng, ông Lương Ngọc Phi (ngụ tỉnh Thái Bình) lại phải vất vả “vác” đơn đi khiếu kiện khắp nơi để đòi bồi thường tổn thất tinh thần và tài sản do bị xử oan
Đang lãnh đạo Công ty Khai thác chế biến nông - hải sản xuất nhập khẩu Hòa Bình và làm ăn phát đạt, ông Lương Ngọc Phi (ngụ phường Quang Trung, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình) bị khởi tố, bắt tạm giam về tội “Trốn thuế” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
“Lúc đó, chúng tôi vay tiền ngân hàng để làm ăn nhưng chưa trả được. Từ đó, họ đã hình sự hóa một quan hệ dân sự để bắt giam tôi” - ông Lương Ngọc Phi nhớ lại.
Sau khi bị bắt, ngày 29-9-1999, TAND tỉnh Thái Bình tuyên phạt bị cáo Phi tổng cộng 17 năm tù giam cho 2 tội danh trên. Đến ngày 26-4-2000, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao bác án sơ thẩm, yêu cầu điều tra lại từ đầu. Sau đó, tháng 12-2003, VKSND tỉnh Thái Bình ra quyết định đình chỉ vụ án và trả tự do cho ông Phi.
Ông Phi cho biết: “Sau khi được minh oan, tôi hết sức vất vả trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Dù có đơn yêu cầu TAND tỉnh Thái Bình bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần nhưng phải tới tháng 6-2006, TAND tỉnh Thái Bình mới thay mặt các cơ quan tố tụng công khai xin lỗi tôi”.
Sau khi thỏa thuận bồi thường thiệt hại không được, ông Phi khởi kiện đòi bồi thường tổn thất tinh thần, thu nhập thực tế bị mất trong 35 tháng ngồi tù oan. Mãi đến năm 2009, TAND tỉnh Thái Bình mới đồng ý bồi thường cho ông Phi 660 triệu đồng.
Không đồng ý, ông Phi tiếp tục khởi kiện để đòi bồi thường cho số tài sản đã bị cơ quan tố tụng bán tống, bán tháo trong thời gian ông ngồi tù. Vụ kiện này lại bị 3 ngành tòa án, kiểm sát, công an “đá bóng” trách nhiệm cho nhau, trong khi những người tham gia truy tố, xét xử ông trước đây đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác. Phải đến ngày 29-8, TAND TP Thái Bình mới mở phiên tòa và yêu cầu TAND tỉnh Thái Bình bồi thường cho ông Phi 21 tỉ đồng.
Theo ông Lương Ngọc Phi, sau khi bản án có hiệu lực, ngày 29-9, ông có văn bản đề nghị TAND tỉnh Thái Bình thi hành án nhưng đến nay, vẫn chưa thấy cơ quan chức năng phản hồi.
Trao đổi với Báo Người Lao Động ngày 13-11, ông Nguyễn Thanh Tịnh, Cục trưởng Cục Bồi thường nhà nước (Bộ Tư pháp), cho biết trường hợp đốc thúc thi hành án cho ông Lương Ngọc Phi thuộc thẩm quyền của TAND Tối cao. Sau khi bản án có hiệu lực, ông Phi phải làm đơn đề nghị thi hành án. Nếu đã gửi đơn mà cơ quan liên quan vẫn không thụ lý và giải quyết, ông Phi có quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên. Theo quy định, TAND Tối cao sẽ đề nghị Bộ Tài chính thu xếp kinh phí để bồi thường cho ông Phi. Cục Bồi thường nhà nước sẽ giám sát việc thi hành án, bồi thường oan sai này.
Theo thống kê mới đây của Cục Bồi thường nhà nước, từ tháng 10-2012 đến tháng 9-2013, có 82 đơn yêu cầu bồi thường tổng cộng hơn 38 tỉ đồng. Trong đó, vụ của ông Lương Ngọc Phi đã đủ điều kiện thi hành án. Đến nay, các cơ quan liên quan đã bồi thường 37 vụ với hơn 15 tỉ đồng. Tuy nhiên, ngân sách nhà nước mới chỉ thu hồi được hơn 234 triệu đồng từ trách nhiệm hoàn trả của các cán bộ, công chức.
Đại diện Cục Bồi thường nhà nước thừa nhận trách nhiệm hoàn trả, số vụ việc và số tiền phải hoàn trả của cán bộ, công chức còn hạn chế là do quy định của luật tố tụng chỉ xem xét trách nhiệm hoàn trả nếu xác định có lỗi cố ý, ra bản án sai. Trong khi đó, nhiều vụ việc vừa có lỗi cố ý vừa có lỗi vô ý nên bóc tách rất khó khăn; nhiều cán bộ dính líu vi phạm đã chuyển công tác hoặc qua đời nên rất khó đòi lại tiền. Vụ ông Lương Ngọc Phi, sau khi lấy tiền ngân sách bồi thường, các cơ quan liên quan phải xem xét trách nhiệm của các cán bộ liên quan để truy thu số tiền do thi hành công vụ sai.
2. Báo Đất Việt có bài Bộ Văn hóa ra nghị định "trên mây":Tại người chủ trì soạn?. Bài báo phản ánh: Sau khi Bộ VHTTDL ban hành Nghị định 145, TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), đã có ý kiến với tư cách chuyên gia về nội dung của Nghị định này.
PV:- Bộ VHTTDL vừa ban hành nghị định 145 quy định về tổ chức ngày kỷ niệm, nghi thức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức, trong đó, có nhiều quy định như: Không tặng quà, biểu trưng, biểu tượng (logo); không được cài hoa, đeo nơ khi dự sự kiện, khi nhận giải thưởng từ cán bộ cấp cao phải đứng trang nghiêm... Ông đánh giá như thế nào về tính khả thi của những quy định của Nghị định trên? Việc xác định hành vi để xử phạt sẽ phải được thực hiện như thế nào?
TS Lê Hồng Sơn:- Về chủ trương, quan điểm tôi hoàn toàn đồng tình với việc ban hành Nghị định này để đặt ra các chuẩn cần thiết trong việc tổ chức ngày kỷ niệm, nghi thức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua, nghi lễ đối ngoại và đón, tiếp khách nước ngoài với mục đích khắc phục tình trạng phô trương, lãng phí, tiêu cực và sâu xa một chút ẩn hiện trong đó kể cả dấu hiệu của tham nhũng.
Gần đây, chính phủ ngày càng thực hiện tốt hơn nguyên tắc công khai, minh bạch và rất cầu thị trong việc lắng nghe dư luận, sẵn sàng chỉnh sửa thể chế do mình đã ban hành. Ví dụ như sửa Nghị định, quy định việc CMND bỏ tên cha mẹ; đang sửa Nghị định về tang lễ cán bộ công chức.
Theo tôi, Nghị định số 145 cũng nên xem xét lại. Trường hợp sản phẩm đã ban hành, nếu có những “hạt sạn” lớn thì cũng cần phải có sự căn chỉnh cho phù hợp.
Về căn cứ pháp lý của Nghị định 145. Nghị định chỉ nêu hai căn cứ pháp lý là Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Thi đua, khen thưởng, cá nhân tôi rất băn khoăn. Cảm thấy thiếu, bởi vì đối tượng, phạm vi điều chỉnh cũng như mục đích đưa ra các quy chuẩn tại Nghị định là khá rộng.
Căn cứ Luật tổ chức chính phủ là đương nhiên, tuy nhiên nếu chỉ căn cứ Luật thi đua khen thưởng, mà không có những căn cứ pháp lý khác, theo tôi là một điều rất đáng tiếc. Chúng ta biết rằng, Quốc hội đã ban hành Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí mấy năm nay rồi mà một trong những mục đích yêu cầu của việc ban hành Nghị định này là “bảo đảm an toàn, trang trọng, tiết kiệm, hiệu quả, không phô trương hình thức”.
Do đó, cần phải xem xét có cần phải bổ sung căn cứ pháp lý về thực hành tiết kiệm chống lãng phí hay không? Trong đối tượng phạm vi điều chỉnh của Nghị định tôi thấy có một loạt quy chuẩn quy định về nghi lễ ngoại giao khi đón, tiếp các đoàn khách nước ngoài thăm cấp nhà nước, thăm chính thức. Vậy căn cứ pháp lý ở đây có hay không? Và nếu có thì đó là văn bản nào?
PV:- Giải thích về quy định được áp dụng cho tất cả các đơn vị, không loại trừ tổ chức xã hội nào, kể cả đơn vị kinh tế tư nhân hay có vốn đầu tư nước ngoài, đại diện Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch nói, nghị định chỉ thiếu hai từ “Nhà nước”. Ông bình luận thế nào về việc ra văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ thiếu hai từ như trên?
TS Lê Hồng Sơn: - Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Nghị định 145, tôi thấy rất rộng: từ các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế cho đến đơn vị vũ trang nhân dân.
Theo tôi, với những chủ thể được quy định như đã dân, ít nhất có thể và nên chia thành hai nhóm cơ bản: Nhóm thứ nhất là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân. Các cơ quan, đơn vị thuộc nhóm này được giao sử dụng quyền lực công để quản lý, tham gia quản lý nhà nước ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau; trong quá trình hoạt động có sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thưc hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Và đương nhiên, khi đặt chuẩn về việc tổ chức ngày kỷ niệm nghi thức trao tặng, đón nhận danh hiệu thi đua; nghi lễ đối ngoại, tiếp khách…Chính phủ hoàn toàn có quyền và cần phải đưa ra những quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ tục, trình tự; nội dung buổi lễ; nguyên tắc chi tiêu nhằm bảo đảm nguyên tắc trang trọng, tiết kiệm, hiệu quả, chống phô trương, hình thức, lãng phí và sâu xa, kể cả chống tham nhũng.
Nhóm thứ hai, theo tôi, là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và tổ chức kinh tế. Đây là nhóm các tổ chức, đơn vị được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự quản về ngân sách. Nói nôm na là kênh xã hội. Nếu thực hiện chủ trương tiết kiệm, hiệu quả, chống phô trương hình thức thì Chính phủ đặt ra các quy chuẩn tại Nghị định này là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, đối với nhóm này, quyền tự chủ về kinh phí, ngân sách và hoạt động nội bộ nang tính tự quản rất cao. Đặc biệt, kinh phí của họ là hoàn toàn tự chủ. Do đó, không nên can thiệp quá sâu trong việc tổ chức ngày lễ kỉ niệm, nghi thức đón nhận hình thức khen thưởng, thi đua của loại đối tượng này.
Tôi chia sẻ với ý kiến của một số người cho rằng, đây là dịp để các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, thể hiện những thành tích, những dấu ấn cần được xã hội biết và tôn vinh. Ở mức độ nào đó, đây cũng là một hình thức cần thiết để quảng bá, quảng cáo nâng cao chất lượng, hiệu quả của những tổ chức này.
Riêng đối với tổ chức kinh tế có phần vốn góp nhà nước như các tập đoàn, tổng công ty kinh tế nhà nước…nên xếp vào nhóm thứ nhất. Đối với tổ chức kinh tế không có phần vốn nhà nước có thể xếp vào nhóm thứ hai. Công văn thẩm định của Bộ Tư pháp đề nghị đưa đối tượng này ra khỏi đối tượng, phạm vi điều chỉnh của nghị định này là có lý. Đáng tiếc, ý kiến này của Bộ Tư pháp không được quan
Theo tôi, Nghị định này đã làm tốt việc phân loại các lễ kỉ niệm, mức độ khen thưởng, danh hiệu thi đua…để áp vào đó là quy định về trình tự thủ tục, hình thức thực hiện tương thích với từng loại. Nhưng đáng tiếc việc phân loại đối tượng làm chưa tốt. Cá nhân tôi thiết nghĩ để văn bản này đưa ra các quy chuẩn tốt hơn, thích hợp hơn, ngoài việc phân loại các ngày lễ kỉ niệm, các hình thức khen thưởng, rất cần có sự phân loại, các quy chuẩn cho tương thích với từng nhóm đối tượng.
PV: - Bàn về tính khả thi của Nghị định, Bộ VHTTDL cho rằng nghị định đưa ra để nâng cao nhận thức, khuyến khích người dân. Quan điểm như vậy có đúng không và vì sao, thưa ông?
TS Lê Hồng Sơn:- Đọc toàn bộ Nghị định 145, cá nhân tôi rất băn khoăn về tính khả thi. Một loạt các quy định của Nghị định không hoàn toàn tương thích với từng nhóm, từng loại đối tượng. Có những trường hợp quy định rất cụ thể thì khi đọc vào ai cũng thấy là rất hình thức, khó để người ta chấp thuận. Ví dụ, với quy định không dùng phù hiệu, nơ, hoa cài ngực; thời gian biểu diễn nghệ thuật không quá 30 phút; không tặng biểu trưng, biểu tượng (logo), không tổ chức chiêu đãi…, nếu đối chiếu với nhóm thứ hai là nhóm tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội… mang tính tự chủ, tự quản cao thì là thái quá.
Ngoài ra, về chuyện kính thưa quy định tại khoản 4 Điều 27 của nghị định, dư luận băn khoăn là có lý. Nếu xét về văn phong ngữ nghĩa, chính tả tiếng Việt thì cách thể hiện ở khoản này chưa đạt độ chuẩn mực, trong sáng, dễ tạo ra cách hiểu rất khác nhau. Ví dụ: “Lãnh đạo có chức vụ cao nhất ở trung ương và ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị”, có người cho rằng chỉ là “kính thưa họ tên và chức danh” của một người thôi. Cách hiểu này ít nhận được sự đồng thuận.
Đặc biệt, là Nghị định của chính phủ đưa ra một loạt quy chuẩn bắt cơ quan tổ chức, cá nhân phải tuân thủ nhưng thiếu hẳn chế tài. Không thể nói rằng nội dung của Nghị định chỉ mang tính định hướng, hướng dẫn, tuyên truyền. Tôi không phản đối điều này, tuy nhiên đặt ra môt loạt quy chuẩn – quy phạm pháp luật tương đối cụ thể buộc người ta phải làm theo thế này, thế kia mà không có biện pháp xử lý khi vi phạm thì hóa ra văn bản này chỉ là sự “chuyển động của không khí”. Nên nghiên cứu hướng nghị định này đặt ra loại chế tài mà tôi gọi là “chế tài nguyên tắc”. Tức là phải có quy định cơ quan tổ chức có hành vi vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
PV: - Ông có nói Nghị định không đặt ra chế tài thì chỉ là sự chuyển động "không khí". Vậy, ý cụ thể ở đây là gì?
TS Lê Hồng Sơn: - Văn bản quy phạm pháp luật, nhất là ở tầm Nghị định của Chính phủ trở lên thì việc đặt ra chế tại trong văn bản là hết sức cần thiết. Nói Nghị định không cần chế tài mà chỉ khuyến nghị, hướng dẫn, tuyên truyền, theo tôi là không ổn. Nếu thế, chỉ cần một Nghị quyết là đủ.
Trong Nghị định này có rất nhiều "định chuẩn", buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ. Đặc biệt lưu ý chủ trương chống phô trương, hình thức, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng. Hơn nữa, trong nhóm đối tượng phải thực thi Nghị định này bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân, cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước, sĩ quan, hạ sĩ quan lực lượng vũ trang.
Những đối tượng này khi có hành vi vi phạm các quy định của Nghị định, hoàn toàn có thể bị xử lý kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, cách chức buộc thôi việc…Không loại trừ xử lý theo quy định của pháp luật hình sự nếu có chứa hành vi tham nhũng. Nghị định cần phải quy định rõ điều này.
Nên nghiên cứu hướng Nghị định này đặt ra loại chế tài mà tôi gọi là “chế tài nguyên tắc”. Tức là phải có quy định cơ quan tổ chức có hành vi vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nếu không có chế tài thì các quy chuẩn của Nghị đỉnh chỉ như là "sự chuyển động của không khí" mà thôi.
PV: - Đây không phải lần đầu tiên Bộ VHTTDL đưa ra những văn bản quy phạm pháp luật không khả thi. Trước đó, Bộ VHTTDL đã từng ban hành những nghị định như cấm không rắc vàng mã, không lắp kính quan tài… Phải lý giải thế nào về thực tế này, thưa ông? Để xảy ra tình trạng đó, trách nhiệm thuộc về ai?
TS Lê Hồng Sơn: - Trách nhiệm thuộc cơ quan chủ trì soạn thảo; kể cả trách nhiệm cơ quan thẩm định, thẩm tra. Cao nhất là cơ quan xem xét thông qua quy định đó mà cụ thể ở đây, không thể lẩn tránh, là tập thể chính phủ. Nếu xem xét nghiêm túc có một "dải" tổ chức, đơn vị, cá nhân cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm ở các mức độ khác nhau.
Ví dụ chuyên viên trong tổ biên tập, đưa ra phải dự liệu các nội dung của dự thảo để trình lên. Lãnh đạo xem xét, quyết định nội dung trình; nội dung thẩm định, nội dung thẩm tra. Trách nhiệm tập thể chính phủ và cá nhân trong chính phủ không thể phủ nhận trong những trường hợp ban hành thể chế gây điểm nóng trong dư luận, thiếu tình khả thi buộc phải chỉnh sửa, tạo hiệu ứng không tốt trong xã hội.
Tôi thấy trong thời gian gần đây việc này xuất hiện không còn là cá biệt, có thể nói một số các quy định, các văn bản, vừa ban hành đã buộc phải nghiên cứu, chỉnh sửa, mất thời gian, mất công sức tiền của, làm lung lay niềm tin của xã hội đối với thể chế nhà nước. Hình như lâu nay việc này chưa được chú ý đúng mức, mặc dù đại biểu quốc hội, Quốc hội đã nhiều lần nêu vấn đề này.
PV: - Việc xuất hiện hàng loạt những nghị định, văn bản thiếu thực tế trong thời gian gần đây đang thể hiện điều gì trong việc ban hành văn bản luật ở Việt Nam? Phải làm thế nào để khắc phục tình trạng này, thưa ông?
TS Lê Hồng Sơn: - Thực tế, trong thời gian vừa qua, một số văn bản luật mới được ban hành đã gặp phải những phản ứng gay gắt từ dư luận, để xảy ra tình trạng này do nhiều nguyên nhân. Thực trạng kinh tế xã hội ngày càng đa dạng, phong phú. Việc định chuẩn cho những quan hệ này ngày càng khó khăn, phức tạp. Quy trình xây dựng ban hành văn bản QPPL không được tuân thủ nghiêm chỉnh.
Đội ngũ cán bộ xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm còn thiếu về số lượng, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế, bất cập; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo văn bản trong nhiều trường hợp chưa đảm bảo đúng quy trình xây dựng. một số công đoạn trong trình tự xây dựng văn bản, được thực hiện còn mang tính hình thức như việc đánh giá tác động của dự thảo văn bản chưa thấu đáo còn hời hợt, đối phó; việc tổ chức lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân nhất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản cũng chưa được coi trọng, còn hình thức nên những ý kiến phản biện xã hội đối với chính sách của nhà nước chưa được tiếp thu một cách nghiêm túc, thấu đáo.
3. Báo Giáo dục và Thời đại có bài Cơ chế “một cửa” đang biến tướng. Bài báo phản ánh: Công cuộc cải cách hành chính theo hướng tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm triển khai từ rất sớm.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 với 4 nội dung chính: Cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công...
Thực hiện Quyết định số 93/2007QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành đã triển khai cơ chế “một cửa” “một cửa liên thông” ra tất cả các công việc có liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Chính phủ thì công cuộc cải cách hành chính chưa đạt được kết quả mong muốn, vẫn còn nhiều thủ tục hành chính, “giấy phép con” (theo thống kê sơ bộ còn gần 400 loại giấy tờ) gây khó khăn, phiền hà cho công dân, tổ chức cần phải bãi bỏ.
Trong cải cách hành chính ở nước ta hiện nay còn xuất hiện tình trạng bất hợp lý là bỏ được loại giấy phép này thì cũng xuất hiện giấy phép khác; bỏ “giấy phép mẹ” thì sẽ “đẻ giấy phép con”, “giấy phép cháu”...
Do đó, biện pháp hiệu quả, cấp bách nhất hiện nay trong cải cách thủ tục hành chính vẫn là triển khai áp dụng cơ chế “một cửa” “một cửa liên thông” một cách đồng bộ, toàn diện trong mọi lĩnh vực hoạt động của cơ quan Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn và phục vụ tốt hơn yêu cầu của công dân, tổ chức, doanh nghiệp.
Việc loại bỏ các biến tướng, các thiếu sót, khuyết điểm trên cần có một số các biện pháp sau:
Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu kiểm soát tốt việc ban hành văn bản pháp luật sẽ hạn chế tối đa việc ban hành các thủ tục hành chính gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, có chế độ, chính sách thoả đáng cho cán bộ, công chức. Thực hiện đồng bộ, quy định rõ ràng nghĩa vụ, quyền và trách nhiệm của từng cá nhân, bộ phận, cơ quan, tổ chức.
Các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét ban hành quy định về cơ chế phối hợp, trách nhiệm của từng cơ quan đối với việc thực hiện nhiệm vụ chung. Song song với đó là thực hiện đồng bộ theo từng nhóm lĩnh vực trong việc áp dụng cơ chế “một cửa”.
Giảm bớt các thủ tục, hồ sơ, thời gian theo hướng đơn giản, tinh gọn: Việc giảm bớt thủ tục, hồ sơ, giấy tờ là một trong những nội dung quan trọng nhất, cấp thiết nhất trong thực hiện cơ chế “một cửa”.
Do đó, cần đẩy mạnh việc rà soát để bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ gây phiền hà cho công dân, tổ chức; càng giảm được nhiều giấy tờ, thủ tục, thời gian bao nhiêu sẽ thúc đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính bấy nhiêu.
Phân cấp nhiều hơn và mạnh hơn nữa cho các địa phương, ban, ngành; nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì: Phân cấp trong quản lý hành chính là rất cần thiết, đặc biệt là trong việc thực hiện cơ chế “một cửa” “một cửa liên thông”.
Vì khi đó sẽ giảm bớt đầu mối các cơ quan Nhà nước cùng thực hiện một loại công việc nên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan chủ trì thụ lý giải quyết các yêu cầu của công dân.
Đẩy nhanh công tác xã hội hoá một số hoạt động mang tính hành chính, công vụ sang loại hình dịch vụ công: Việc chuyển từ cơ chế hành chính Nhà nước sang cơ chế hành chính công sang hình thức dịch vụ công sẽ giảm bớt được gánh nặng về biên chế, kinh phí cho các cơ quan Nhà nước trong việc áp dụng cơ chế “một cửa” “một cửa liên thông”, đồng thời huy động được các nguồn lực trong hoạt động cải cách hành chính.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Các ông Vũ Đức Đam, Phạm Bình Minh - Tân Phó Thủ tướng Chính phủ. Sáng 13/11, tại Hà Nội, Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm 2 Phó Thủ tướng Chính phủ là ông Vũ Đức Đam và ông Phạm Bình Minh.
Ban Kiểm phiếu gồm 21 thành viên, do ông Nguyễn Quốc Cường (đại biểu tỉnh Bắc Giang) làm Trưởng Ban, công bố kết quả bỏ phiếu của 471 đại biểu Quốc hội có mặt tại hội trường về nội dung trên.
Theo đó, 421 đại biểu Quốc hội tán thành phê chuẩn việc bổ nhiệm ông Vũ Đức Đam, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ (chiếm 84,54% tổng số đại biểu).
427 đại biểu Quốc hội tán thành phê chuẩn việc bổ nhiệm ông Phạm Bình Minh giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ (chiếm 85,75% tổng số đại biểu).
Ngay sau đó, đa số đại biểu Quốc hội đã biểu quyết tán thành Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm nhân sự giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ.
Đối với ông Vũ Đức Đam, Quốc hội sẽ tiếp tục tiến hành bỏ phiếu phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
Sau khi Quốc hội phê chuẩn các chức danh Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu nhấn mạnh: "Quốc hội đã tán thành phê chuẩn chức vụ Phó Thủ tướng với ông Vũ Đức Đam và ông Phạm Bình Minh với số phiếu cao, mong các đồng chí tiếp tục phấn đấu để đáp ứng niềm tin của các đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước".
2. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Bão số 14: Gây hư hại gần 50.000 ha hoa màu. Bài báo phản ánh: Theo Ban Chỉ đạo PCLB Trung ương, bão số 14 đã khiến 14 người chết và mất tích, 75 căn nhà bị đổ sập, hơn 2.500 nhà bị tốc mái, hư hỏng. 316 ha lúa bị ngập, hư hại. Diện tích hoa màu bị ngập, hư hại gần 50.000ha.
Trong số người thiệt mạng, có 10 người chết khi chuẩn bị các công tác đối phó ứng phó bão ở một số địa phương (Thanh Hóa 1 người; Hà Tĩnh 2 người; Quảng Bình 1 người, Thừa Thiên Huế 1 người, Quảng Nam 3 người; Quảng Ngãi 2 người). 4 người mất tích đều ở tỉnh Quảng Ninh.
Số người bị thương là 84 người. Nhà bị đổ sập là 75 nhà, hơn 2.500 nhà bị tốc mái, hư hỏng. Diện tích lúa bị ngập, hư hại là 316ha. Diện tích hoa màu bị ngập, hư hại gần 50.000ha.