Điểm tin báo chí sáng ngày 06 tháng 11 năm 2013

06/11/2013
Trong ngày 05/11 và đầu giờ sáng ngày 06/11/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Nghị định “trên trời rơi xuống”!. Bài báo phản ánh: Việc mới đây Chính phủ ban hành nghị định 145/2013 thoạt nghe có vẻ như hướng đến mục tiêu chống lãng phí, đề cao lối sống văn hóa, văn minh..., nhưng nếu xem xét kỹ thì có nhiều điều không ổn. Không chỉ không ổn về văn hóa mà còn thể hiện một tư duy làm luật mang tính bao cấp, thậm chí là độc đoán, độc quyền. Vô lý và thiếu khả thi đến mức buồn cười.

Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý và điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, trên cơ sở bảo đảm các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp. Việc Chính phủ ban hành các văn bản điều hành, quy định trong các cơ quan hành chính như về nghi thức đón khách quốc tế, việc tổ chức các ngày kỷ niệm... là bình thường.

Cũng như chuyện tiết kiệm chi tiêu, đơn giản thủ tục trong các cơ quan nhà nước là chuyện mà các cơ quan này hiển nhiên phải có trách nhiệm thực hiện. Nhưng đó là chuyện của Nhà nước, không liên quan gì đến người dân, doanh nghiệp.

Nhưng việc trong nghị định 145/2013 quy định không cho phép tặng quà tại các buổi lễ, dịp kỷ niệm... và áp dụng cho cả tổ chức kinh tế (doanh nghiệp) khiến người ta cảm thấy kinh ngạc vì tư duy theo kiểu rảnh chuyện, thích ôm đồm của cơ quan tham mưu (ở đây là Bộ VH-TT&DL).

Nghị định 145/2013 có nội dung quy định về văn hóa, thuộc phạm trù đạo đức, lối sống và truyền thống - đây không phải là vấn đề pháp luật. Việc một người mặc áo gì, có đeo nơ hay không, có đặt bình hoa hay không... thuần túy là quyền tự do cá nhân, không phát sinh mối quan hệ hay giao dịch với người khác. Những nội dung như vậy không phải là đối tượng điều chỉnh của nghị định, thông tư.

Rõ ràng những nội dung theo kiểu như vậy xuất phát từ lối tư duy quá cũ mòn, lúc nào cũng muốn “nắm”, muốn “dạy dỗ” thiên hạ. Dù mình chẳng có quyền và thực tế cũng không có khả năng theo dõi, quản lý.

Nếu cấm doanh nghiệp không được tặng hoa, tặng quà thì rõ ràng đây là sự cản trở, thậm chí làm hạn chế quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Pháp luật quy định rõ công dân, doanh nghiệp có quyền sở hữu tài sản, quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình - và đây là một trong những quyền căn bản nhất của con người, được Hiến pháp bảo vệ.

Kiểu ban hành những văn bản như nghị định 145/2013 còn thể hiện sự thiếu trách nhiệm của cơ quan ban hành, và rồi đây sẽ gây ra không biết bao nhiêu sự phiền phức, tốn kém về sau.

Hãy thử hình dung dịp tết này có một doanh nghiệp tổ chức buổi lễ tổng kết, rồi có một cán bộ văn hóa thông tin tới kiểm tra và  phán là không có “tượng Bác Hồ đặt trên bục cao chếch phía trước bên phải cột cờ”, khẩu hiệu treo ở vị trí không phù hợp, tự ý tặng quà cho khách mời... rồi đòi phạt. Rồi hai bên “cãi nhau”, buổi lễ bị đình hoãn, thậm chí dẫn đến phải khiếu nại, kiện tụng. Những phiền phức, thiệt hại của doanh nghiệp ai sẽ chịu? Câu hỏi đơn giản đặt ra là: dựa trên căn cứ nào mà Chính phủ quy định như vậy - thì ai sẽ giải quyết? Trả lời ra sao?

Có thể nói việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay là có vấn đề. Nhiều cái cần thì trì hoãn, trong khi những chuyện vô thưởng vô phạt, không cần thiết thì lại được pháp quy, ban hành liên tục. Rồi sửa đổi, thay thế quá nhiều. Hình như các cán bộ công chức ngồi trong phòng máy lạnh, lãnh tiền ngân sách và cố sức nặn ra, tưởng tượng ra những vấn đề trên mây, xa rời cuộc sống.

Ngoài ra, có thực trạng là các nghị định, thông tư tuy mới ban hành nhưng hầu hết không có gì mới đáng kể, ngoài sự bổ sung, thêm thắt những nội dung trời ơi, không thể áp dụng. Ngay như nghị định 145/2013 được ban hành là để thay thế nghị định 154/2004, tức là chưa tới mười năm. Nhìn rộng ra, có thể thấy rất nhiều luật, nghị định được ban hành theo kiểu như vậy, vừa tốn kém, vừa gây ra những phiền phức, làm ảnh hưởng đến quyền công dân.

Đã đến lúc cần có một cơ chế phán quyết, ngăn chặn việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật có nội dung trái pháp luật, vi hiến, xa rời cuộc sống và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

2. Cũng về vấn đề này, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bốn bất ổn của nghị định “nghi thức, nghi lễ”. Bài báo phản ánh: Thay thế hai nghị định ban hành từ năm 2001, 2004 nhưng Nghị định 145/2013 lại có nhiều điểm còn tụt lùi hơn (!).

Phải đến ngày 16-12 thì Nghị định (NĐ) 145/2013 của Chính phủ (quy định về tổ chức ngày kỷ niệm; nghi thức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua; nghi lễ đối ngoại và đón tiếp khách nước ngoài) mới có hiệu lực thi hành nhưng hiện dư luận đang có nhiều lời chê trách, chủ yếu dành cho phần đối nội. Nhiều người ngỡ quy định mới toanh nhưng thực ra NĐ 145 là tổng hợp của hai NĐ 82/2001 về nghi lễ đón tiếp khách nước ngoài và NĐ 154/2004 về nghi thức nhà nước trong các buổi lễ, đón nhận danh hiệu vinh dự nhà nước.

Thử so sánh giữa cái mới và cũ sẽ thấy NĐ 145 có bốn điểm bất ổn lớn.

- Ôm đồm nhiều đối tượng

Giống như NĐ 154/2004, NĐ 145 quy định các đối tượng điều chỉnh rất rộng. Gồm có: các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân. Tuy nhiên, như băn khoăn của nhiều người, với các cơ quan nhà nước hoặc những đơn vị sử dụng ngân sách, Chính phủ có quyền bắt buộc họ phải làm điều này, điều nọ để “tiết kiệm, không phô trương”. Ngược lại, với các tổ chức kinh tế không xài tiền ngân sách, khi việc tặng quà, logo, gắn nơ hay cài hoa cho khách mời là những tính toán riêng của họ và chính họ biết rõ hơn ai hết là nên hay không nên, có hiệu quả hay không, làm sao Chính phủ cấm cản và liệu có cấm được không?

Theo Điều 61 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khi soạn thảo dự thảo NĐ, ban soạn thảo phải “tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan”. Vậy Bộ VH-TT&DL đã tổng kết việc thực hiện NĐ 154/2004 thế nào, đã có đánh giá ai làm, ai không, làm hết tất cả hay chỉ làm một phần nhỏ, thậm chí không làm. Không thể không hỏi như vậy vì nếu khảo sát kỹ lưỡng và đã tự nhận thấy trên thực tế chỉ có thể bắt buộc thực hiện đối với một số đối tượng chính như cán bộ, đảng viên… (như phát biểu của ông Phan Đình Tân, người phát ngôn của Bộ VH-TT&DL trên Pháp Luật TP.HCM ngày 4-11), tại sao NĐ 145 không có sự điều chỉnh về đối tượng áp dụng cho hợp lý hơn?

- Năn nỉ thay vì yêu cầu

Là văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành theo thủ tục, trình tự luật định nên NĐ phải có các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Khi là phương tiện thực hiện quyền lực nhà nước thì ngôn ngữ trong NĐ buộc phải có tính nghiêm túc, thể hiện sự uy quyền, tạo tâm lý tôn trọng pháp luật của đối tượng chịu tác động. Rất tiếc là điều này chưa được NĐ 145 tuân thủ chặt chẽ. Thay vì nêu rõ “phải làm” cho mạnh mẽ thì NĐ lại “khuyến khích”. Nó đồng nghĩa với việc làm càng tốt nhưng nếu không làm cũng chẳng sao!

Đơn cử, về phần trang phục, Điều 23 “khuyến khích khách mời, đại biểu và quần chúng dự lễ mặc trang phục dân tộc, lễ phục tôn giáo…” (khoản 2). Khoan bàn đến chuyện loại quần áo nào là trang phục dân tộc thì với từ “khuyến khích” không nên dùng trong ngữ cảnh này lại có cảm nhận giữ lại quy định cũ sẽ dễ thực hiện hơn. Cụ thể, quy định cũ yêu cầu “người chủ trì buổi lễ; đại biểu, khách mời; người trao tặng và người đón nhận danh hiệu vinh dự nhà nước mặc com-lê có thắt cà vạt hoặc áo sơ mi dài tay có thắt cà vạt (nam); áo dài truyền thống (trời lạnh có thể có áo khoác ngoài) hoặc com-lê nữ (nữ).

- Dở hơn cái cũ

Nói dở hơn vì có nhiều thứ NĐ 145 nêu gọn quá khiến không biết đường lần hoặc cá biệt là còn lê thê hơn. Ở Điều 27 về trình tự tiến hành lễ kỷ niệm, NĐ 145 chỉ nêu việc giới thiệu đại biểu “ngắn gọn, trang trọng”, phần trình bày diễn văn hoặc báo cáo chỉ “kính thưa họ tên và chức danh” lãnh đạo có chức vụ cao nhất ở trung ương và ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị.

Trước hết, hiểu sao là giới thiệu ngắn gọn mà vẫn trang trọng khi lâu nay các buổi lễ có cái lệ giới thiệu dài ngoằng từ chức cao đến chức thấp như thể thà dư còn hơn bỏ sót khiến ai nấy ngán ngẩm? Kế tiếp, khi đã giới thiệu đủ đầy rồi, cần gì bài diễn văn phải tiếp tục “kính thưa” một loạt mấy vị lãnh đạo từ trung ương và ban, bộ, ngành, địa phương, đơn vị?

Đáng nói là NĐ cũ quy định việc này như sau: Trưởng ban tổ chức tuyên bố lý do và giới thiệu đại biểu ngắn gọn, trang trọng. Chỉ giới thiệu tên và chức vụ đồng chí đại biểu có chức vụ cao nhất về Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc của trung ương và địa phương; các đồng chí khác giới thiệu chung. Mở đầu diễn văn, báo cáo hoặc phát biểu chỉ “kính thưa” một đồng chí có chức vụ cao nhất của trung ương hoặc địa phương dự buổi lễ, còn lại “kính thưa” chung các đồng chí lãnh đạo, các vị đại biểu.

-  Tiếp tục không khả thi

Đồng ý là NĐ 145 chỉ nêu các nội dung thực hiện còn việc chế tài sẽ được điều chỉnh bằng một NĐ xử phạt vi phạm hành chính khác. Song từ trước đến giờ vẫn chưa có quy định nào xử phạt việc này. Nếu vậy, ban hành để làm gì mà cơ chế giám sát, đảm bảo thực hiện không có và khi nội dung vẫn còn nhiều điểm chưa chuẩn như đã phân tích ở trên, đố ai cam đoan cái mới sẽ không tiếp tục không khả thi như cái cũ.

3. Báo Hà Nội mới có bài Thanh tra, kiểm tra về chứng thực, hộ tịch: Nhiều sai sót không đáng có. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang tăng cường thanh, kiểm tra và xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu trong lĩnh vực hộ tịch, chứng thực ở nhiều tỉnh, thành phố. Kết quả bước đầu trên địa bàn Hà Nội cho thấy, tuy không phát hiện tiêu cực trong thu lệ phí tại nhiều phường, xã nhưng hiện tượng cán bộ không hiểu luật, lại tự "sáng tạo" thêm quy định để tiện cho công tác quản lý khá phổ biến.

Theo Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp Hà Kế Vinh, tại hầu hết các đơn vị, địa phương được thanh tra, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, chứng thực cơ bản đã bảo đảm đúng pháp luật, đáp ứng tốt nhu cầu đăng ký các sự kiện hộ tịch, chứng thực của nhân dân. Bước đầu, tại Hà Nội, qua rà soát ở 41 UBND xã, phường, thị trấn thuộc 18 quận, huyện không có tình trạng tiêu cực trong thu lệ phí. Các trường hợp thắc mắc của công dân được lãnh đạo UBND cấp xã và cán bộ tư pháp hộ tịch giải thích, hướng dẫn rõ ràng, kịp thời nên không để xảy ra khiếu nại, tố cáo. Thế nhưng, lại có nhiều sai sót trong quá trình thụ lý, giải quyết hồ sơ. Điển hình là 15/18 UBND cấp quận được thanh tra chưa viện dẫn đầy đủ các căn cứ pháp lý khi ban hành quyết định thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc. Trong thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh, có 10/41 UBND cấp xã thiếu chữ ký của người cha hoặc người mẹ trong tờ khai đăng ký khai sinh. Cá biệt có UBND cấp xã khi thực hiện đăng ký khai sinh không lưu tờ khai đăng ký khai trong hồ sơ đăng ký khai sinh. Về lưu trữ hồ sơ, giấy tờ hộ tịch, 11/41 UBND cấp xã trong quá trình giải quyết các việc hộ tịch, không lưu các phiếu tiếp nhận và hẹn trả kết quả, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân…

Có những bất cập trên, phần lớn là do cán bộ thực thi công vụ chưa nắm rõ quy định hiện hành. Thế nhưng, cũng có nơi tự "đẻ" ra quy định mới để tiện cho công tác quản lý. Tiêu biểu là UBND phường Trung Hòa (quận Cầu Giấy), phường Khương Mai (quận Thanh Xuân) khi giải quyết các thủ tục đăng ký kết hôn cho công dân yêu cầu phải xin xác nhận của tổ dân phố về tình trạng hôn nhân vào mặt sau của tờ khai đăng ký kết hôn. Một phường khác cũng thuộc quận Thanh Xuân là Thanh Xuân Bắc khi giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn cho công dân còn yêu cầu công dân về nơi cư trú trước đây để xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân mà không cho công dân cam đoan theo quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, Thông tư số 01/2008/TT-BTP, Thông tư số 08/2010/TT-BTP.

Đoàn Thanh tra cũng phát hiện UBND xã Tiền Phong (huyện Mê Linh) chỉ thực hiện đăng ký kết hôn cho công dân tại địa phương vào thứ năm hằng tuần nên một số hồ sơ đăng ký kết hôn giải quyết chậm so với thời hạn luật định. UBND các quận Thanh Xuân, Tây Hồ từ chối cấp bản chính giấy đăng ký khai sinh thiếu căn cứ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi công dân…

Để chấn chỉnh tình trạng này, theo Phó Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội Phạm Xuân Phương, thời gian tới Sở Tư pháp TP Hà Nội sẽ nêu cụ thể chi tiết sai sót của từng quận, huyện, xã, phường, thị trấn được thanh tra và gửi tới tất cả 29 quận, huyện để cùng chấn chỉnh, rút kinh nghiệm. Bởi đây đều là những lỗi không đáng có nhưng cán bộ tư pháp hộ tịch cơ sở vẫn mắc phải. Thế nhưng, theo phản ánh của một số nơi vừa được thanh tra thì sai phạm trong giải quyết hồ sơ hộ tịch còn bắt nguồn từ cơ chế chính sách về hộ tịch chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ. Thế nên, việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch vào thực tiễn chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc giải quyết các vấn đề về đăng ký, quản lý hộ tịch còn nhiều lúng túng, sai sót. Đơn cử, Thông tư 01/2008/TT-BTP về thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch nêu "Đối với những người đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên mà trong các hồ sơ, giấy tờ đã ghi thống nhất về ngày, tháng sinh, thì xác định theo ngày, tháng sinh đó. Trường hợp ngày, tháng sinh ghi trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất, thì xác định theo ngày, tháng sinh trong hồ sơ, giấy tờ được lập đầu tiên". Nhưng giấy tờ lập đầu tiên là gì thông tư lại không giải thích rõ nên không ít công chức tham mưu giải quyết các vấn đề về hộ tịch từ cấp xã đến cấp huyện (nhất là cấp xã) cho rằng những giấy tờ như Thẻ căn cước thời Mỹ ngụy, Giấy chứng nhận thương binh do cơ quan có thẩm quyền cấp trước đây là loại "giấy tờ được lập đầu tiên". Tuy nhiên, có nơi lại chỉ dùng hai loại giấy tờ trên để tham khảo, củng cố hồ sơ và coi giấy chứng nhận Gia đình Liệt sĩ, các giấy tờ liên quan của cá nhân về hưởng chế độ chính sách của Nhà nước ta mới là "giấy tờ được lập đầu tiên" để làm căn cứ giải quyết các vấn đề về hộ tịch cho cá nhân...

Bất cập trên cho thấy, để khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phương, ngoài biện pháp tăng cường thanh, kiểm tra, cần quan tâm cụ thể hóa các cơ chế, chính sách về hộ tịch gắn với bồi dưỡng, tập huấn cán bộ thực thi công vụ để tránh tối đa tình trạng vận dụng tùy nghi.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Trang Stockbiz.vn có bài Chậm giải ngân gói 30 nghìn đồng do thiếu nguồn cung căn hộ. Bài báo phản ánh: Theo đánh giá của Bộ Xây dựng, việc triển khai giải ngân gói tín dụng hỗ trợ nhà ở còn nhiều khó khăn.

Sau 5 tháng thực hiện, số dự án đề xuất vay là 72 dự án với tổng số vay 6.657 tỷ đồng, nhưng mới có 7 dự án được chấp thuận với tổng số tiền 870 tỷ đồng và giải ngân cho 4 DN với số tiền 91 tỷ đồng. Đối với cá nhân, các ngân hàng đã cam kết cho vay 939 khách hàng với số tiền 325 tỷ đồng, giải ngân cho 920 khách hàng với dư nợ 221 tỷ đồng.

Theo NHNN, việc giải ngân còn thấp là do nguồn cung nhà ở xã hội và nhà ở thương mại có quy mô dưới 70m2 và có giá dưới 15 triệu đồng/m2 thời điểm này khan hiếm. Trong số các dự án đề xuất vay trong gói 30.000 tỷ, nhiều dự án chưa hoàn tất các thủ tục.

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, tổng số căn hộ nhà ở xã hội được phê duyệt đến thời điểm này là 13 nghìn căn, hầu hết mới bắt đầu động thổ, khởi công. Trong khi đó, riêng tại Hà Nội, nhu cầu nhà ở xã hội của toàn thành phố, thì con số này lên tới khoảng 80 nghìn. Vì vậy, nguồn cung nhà ở xã hội đang rất thiếu, đặc biệt là thiếu những căn nhà sắp hoàn thành.

Bên cạnh đó là vướng mắc về thủ tục liên quan đến việc cơ quan công chứng không đồng ý công chứng Hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo hình thành trong tương lai là căn nhà hình thành tư vốn vay. Tương tự, thủ tục xác nhận của cấp xã về thực trạng nhà ở hiện còn khó khăn, được đánh giá chưa thuận lợi cho người dân có nhu cầu.

Một nguyên nhân khác khiến gói 30 nghìn tỷ có tiến độ giải ngân chậm là do quy định bắt người có thu nhập thấp muốn vay tiền phải chứng minh khả năng trả nợ tại các ngân hàng thương mại. Nhiều người cho rằng quy định này đang có biểu hiện thiếu khả thi. Đã là người có thu nhập thấp thì khó có thể chứng minh được thu nhập của mình có khả năng để ra một phần thu nhập cho nhà ở. Tất nhiên, việc đòi hỏi của các ngân hàng thương mại là chính đáng vì không thể để khoản tín dụng này lại rơi vào nợ xấu.

Đây là những lý do chính làm cho việc giải ngân đối với 70% gói 30 nghìn tỷ đồng trợ giúp tín dụng cho người có thu nhập thấp mua nhà ở.

Trước thực tế này, mới đây Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Bộ Xây dựng và các địa phương tiếp tục rà soát, đẩy mạnh triển khai các dự án nhà ở xã hội, kiên quyết đảm bảo quỹ đất 20% theo quy định cho loại hình nhà ở này. Bộ Xây dựng trực tiếp đôn đốc, giám sát khối lượng, khảo sát từng dự án cũng như đối tượng thụ hưởng, nắm bắt, xử lý các vấn đề phát sinh để việc triển khai dự án thuận lợi, đúng mục tiêu và hỗ trợ hiệu quả cho việc vay vốn ưu đãi từ các ngân hàng.

2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Bộ trưởng Trần Đại Quang: Nghiêm túc xem xét trách nhiệm cơ quan tố tụng để án oan sai. Bài báo phản ánh: Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng Trần Đại Quang đã nhấn mạnh như vậy khi đề cập đến trường hợp phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn được tạm đình chỉ thi hành án để chờ xét xử theo thủ tục tái thẩm.

Ngày 5/11, trả lời câu hỏi của phóng viên về vụ việc trên, Bộ trưởng Trần Đại Quang cho biết: Vụ án này đã xảy ra cách đây hơn 10 năm. Ngày 26/3/2004, Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Giang đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thanh Chấn và đã ra bản án tuyên bị cáo phạm tội giết người với mức án chung thân; bị cáo Chấn kêu oan và làm đơn kháng cáo.

Ngày 26-27/7/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án, tuyên y án sơ thẩm; bản án đã có hiệu lực pháp luật và bị cáo đã chấp hành bản án.

Trong quá trình thi hành án, phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn kêu oan, Ban Giám thị trại giam đã chuyển đơn của phạm nhân đến Viện KSND Tối cao và Tòa án Nhân dân Tối cao để xem xét theo thẩm quyền.

Các cơ quan chức năng đã nghiêm túc xem xét, điều tra, xác minh và Viện KSND Tối cao đã có Quyết định số 04/QĐ-VKSTC-V3, ngày 04/11/2013 về việc tạm đình chỉ thi hành bản án số 1241/PTHS, ngày 27/7/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội để chờ đưa ra xét xử theo thủ tục tái thẩm.

Theo Bộ trưởng Trần Đại Quang: Đây là việc làm cần thiết và đúng đắn. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tuân thủ nguyên tắc “trọng chứng hơn trọng cung”; mỗi chứng cứ đều được điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm với tinh thần trách nhiệm kiểm tra, xem xét, đánh giá đảm bảo khách quan, toàn diện về tất cả các tình tiết của vụ án theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Trả lời câu hỏi về trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong trường hợp để xảy ra sự việc như trên, Bộ trưởng Trần Đại Quang nêu rõ: Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, kể cả ở giai đoạn thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai sót, vi phạm, nhất là oan, sai. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta rất chặt chẽ, đầy đủ, cụ thể; cho nên nếu để xảy ra oan, sai, thì đó là điều rất đáng tiếc.

Sắp tới, vụ việc liên quan đến phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn, Tòa án Nhân dân Tối cao sẽ xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự tái thẩm.

“Nếu Tòa án kết luận phạm nhân Nguyễn Thanh Chấn bị kết tội oan, thì phải kịp thời minh oan, khôi phục đầy đủ quyền lợi hợp pháp, bồi thường Nhà nước cho người bị kết tội oan; điều tra, xử lý nghiêm người phạm tội; đồng thời, phải điều tra, làm rõ nguyên nhân dẫn đến oan, sai, xác định trách nhiệm, xử lý nghiêm minh các tập thể, cá nhân thuộc cơ quan tiến hành tố tụng đã điều tra, truy tố, xét xử oan đối với ông Nguyễn Thanh Chấn theo quy định của pháp luật”, Bộ trưởng Trần Đại Quang khẳng định.

Bộ Công an đã chỉ đạo Cơ quan Cảnh sát điều tra chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra, làm rõ về các tình tiết có liên quan đến vụ án để xử lý đảm bảo đúng pháp luật.



File đính kèm