Điểm tin báo chí sáng ngày 19 tháng 9 năm 2013

19/09/2013
Trong ngày 18/9 và đầu giờ sáng ngày 19/9/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Không đồng ý cho thi hành án hợp đồng công chứng. Bài báo phản ánh: Tại phiên họp Thường vụ QH chiều 18-9, nhiều quy định mới trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Công chứng đã vấp phải nhiều ý kiến phản biện gay gắt.

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, dự thảo có những điểm mới: Giao lại cho công chứng viên (CCV) nhiệm vụ công chứng bản dịch; các bên ký kết hợp đồng công chứng được thỏa thuận về quyền yêu cầu cơ quan thi hành án (THA) dân sự tổ chức thi hành hợp đồng đó, trừ trường hợp có tranh chấp và tòa án đã tiến hành thụ lý, giải quyết; nâng cao tiêu chuẩn CCV (CCV chỉ được hành nghề đến 65 tuổi, tăng thời gian đào tạo nghề công chứng từ sáu tháng lên 12 tháng…).

Dự thảo cũng bổ sung quy định tạo cơ sở pháp lý để tổ chức hành nghề công chứng thay mặt người yêu cầu công chứng đi nộp thuế, phí, lệ phí, đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tổ chức hành nghề công chứng cũng có quyền cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ của cơ quan hành chính nhà nước nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu công chứng của các tổ chức, cá nhân...

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý đề nghị cần cân nhắc lộ trình xã hội hóa hoạt động công chứng (hoàn thành chuyển đổi các phòng công chứng – đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp – thành văn phòng công chứng – hoạt động theo Luật Doanh nghiệp vào trước năm 2020) vì đây là hoạt động đòi hỏi tính chuyên môn và trách nhiệm pháp lý cao. Ông Lý cũng cho biết nhiều ý kiến trong Ủy ban Pháp luật cho rằng việc chuyển giao trách nhiệm chứng thực bản dịch từ phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện sang các tổ chức hành nghề công chứng cũng khó có thể bảo đảm chất lượng các bản dịch được công chứng sẽ tốt hơn. Vì bản chất của vấn đề phụ thuộc vào chất lượng của đội ngũ dịch thuật viên. Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cũng không tán thành mở rộng thẩm quyền cho công chứng vì lo ngại “dễ lạm quyền công chứng hợp đồng không xác thực, gây rối loạn xã hội”.

Riêng đối với quy định về quyền yêu cầu cơ quan THA dân sự tổ chức thi hành hợp đồng đã được công chứng, Ủy ban Pháp luật cho rằng không phù hợp với nhiều quy định hiện hành của pháp luật về dân sự, THA dân sự.

Ông Hiện cũng phân tích: Luật THA dân sự chỉ quy định việc THA đối với bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án, quyết định của trọng tài thương mại và quyết định của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh chứ không có quy định về thi hành hợp đồng dân sự. Thực tiễn vừa qua cũng đã xuất hiện khá nhiều trường hợp các bên sử dụng hợp đồng công chứng để hợp thức hóa hoặc che giấu các giao dịch thực tế khác mà CCV khó có thể phát hiện được.

“Nếu cơ quan THA dân sự chỉ căn cứ vào nội dung đã được công chứng để thi hành thì có khả năng thi hành sai hoặc khó khắc phục hậu quả trong trường hợp các bên có tranh chấp và yêu cầu tòa án xét xử sau đó, làm phức tạp thêm các quan hệ dân sự trong xã hội. Trong trường hợp việc cưỡng chế phát sinh từ một hợp đồng công chứng sai hoặc giả mạo thì hậu quả pháp lý sẽ không chỉ giới hạn trong trách nhiệm bồi thường của CCV mà còn là trách nhiệm của cả cơ quan đã tổ chức thi hành hợp đồng đã được công chứng đó” – ông Hiện cảnh báo.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Thời báo kinh tế Việt Nam có bài “Hầu hết các doanh nghiệp thuộc Vinashin đều có vấn đề”. Bài báo phản ánh: Ông Phạm Thanh Quang, Tổng giám đốc Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) cho biết, cả tập thể công ty đang “gồng mình” thực hiện tái cơ cấu Vinashin.

Thưa ông, quá trình tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đang được DATC triển khai đến giai đoạn nào?

Để thực hiện xử lý nợ, tái cơ cấu các doanh nghiệp thuộc Vinashin, bước đầu DATC đã thành lập tổ công tác do lãnh đạo công ty điều hành để trực tiếp làm việc với Vinashin và các cơ quan liên quan.

Hiện nay, chúng tôi đã thành lập Phòng Mua bán nợ 2 để thực hiện chuyên trách về Vinashin, chịu trách nhiệm thực hiện trực tiếp các phương án tái cơ cấu, điều phối hoạt động của các đơn vị, các trung tâm, chi nhánh của công ty trong việc tham gia mua bán nợ và tái cơ cấu các doanh nghiệp thuộc Vinashin.

Bên cạnh đó, nhằm nâng cao năng lực hoạt động, DATC đã chủ động đề xuất trình Bộ Tài chính tham gia dự án của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) để nâng cao năng lực hoạt động cho DATC thông qua chương trình hỗ trợ xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của DATC, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao khả năng quản trị doanh nghiệp...

Đến nay, DATC tiếp tục thực hiện những bước cơ bản để giúp Vinashin thực hiện tái cơ cấu. Công việc của chúng tôi là khảo sát, đánh giá, phân loại các doanh nghiệp. Mặt khác, Vinashin cùng DATC đang triển khai phương án xử lý các khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài.

Ông đánh giá như thế nào về tình trạng của các doanh nghiệp trực thuộc Vinashin?

Hầu hết các doanh nghiệp thuộc Vinashin đều có vấn đề, có doanh nghiệp rơi vào tình trạng “chết lâm sàng”. Do đó, công việc tái cơ cấu tập đoàn này đòi hỏi quá trình khảo sát và đánh giá kỹ càng trước khi đưa ra các giải pháp phù hợp với doanh nghiệp.

Qua khảo sát, đánh giá, DATC sẽ nỗ lực hết sức để tái cơ cấu được Vinashin. Với những doanh nghiệp đã được áp dụng tất cả các biện pháp mà vẫn không thể tái cơ cấu, chúng tôi sẽ tham mưu cho cấp có thẩm quyền xử lý bằng phương án giải thể hoặc phá sản.

Sau khi đánh giá và xây dựng phương án tái cơ cấu khả thi, doanh nghiệp có khả năng khôi phục hoạt động, việc huy động vốn và phát triển doanh nghiệp sẽ được tính đến. Đây cũng là nhiệm vụ DATC được giao.

Ông đánh giá thế nào về ý kiến cho rằng việc tái cơ cấu Vinashin đang chậm trễ?

Việc tiến hành tái cơ cấu Vinashin có thể có phần chậm trễ, một phần do một số cơ chế chính sách còn chưa phù hợp, quan điểm xử lý giữa các bộ, ban ngành, cơ quan chức năng chưa thống nhất. Kết quả tái cơ cấu Vinashin sẽ gắn với trách nhiệm của nhiều người nên một số người có tâm lý e ngại.

Quan điểm của tôi là tất cả các vấn đề đều có lời giải, thực tế hoạt động của DATC đã cho thấy chúng tôi chưa từng bó tay trước vấn đề khó khăn nào.

Tính từ thời điểm bắt tay vào công cuộc tái cơ cấu Vinashin, chúng tôi đã thực hiện khảo sát khoảng 60 doanh nghiệp. Sắp tới, DATC sẽ tiếp tục khảo sát các doanh nghiệp còn lại để báo cáo cấp có thẩm quyền một cách tổng thể tái cơ cấu các doanh nghiệp.

Thực tế qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi nhận thấy nhiều doanh nghiệp có thể được tái cơ cấu nhanh, đảm bảo cân bằng thu chi sau thời gian ngắn; một số doanh nghiệp mang tiếng là “đã chết”, nhưng thực tế không hẳn như vậy vì có nguyên nhân để doanh nghiệp lâm vào tình trạng yếu kém là do yếu tố con người, năng lực quản trị và điều hành yếu kém...

Vinashin có đến hơn 200 doanh nghiệp, như vậy, khối lượng công việc còn lại quá lớn, thưa ông?

Con số được công bố là hơn 200 doanh nghiệp trực thuộc Vinashin, nhưng không hẳn như vậy. Thực ra, chỉ khoảng 70 doanh nghiệp trong số này thuộc dạng 100% vốn nhà nước, còn lại là các công ty cổ phần Vinashin nắm chi phối hoặc chỉ là công ty liên kết.

Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì chúng tôi nhận thấy bắt buộc phải tái cơ cấu để bảo đảm thu hồi vốn cho nhà nước và đem lại lợi ích cho xã hội. Trong số này, những doanh nghiệp còn vốn sẽ được chuyển đổi, những doanh nghiệp hết vốn sẽ được xem xét khả năng tái cơ cấu.

Với mỗi doanh nghiệp, có nhiều phương án xử lý khác nhau. Trong đó, có phương án an toàn, có phương án mạo hiểm, nhưng quan trọng là tìm phương án tối ưu.

Khi nhận nhiệm vụ hỗ trợ Vinashin tái cơ cấu, DATC nhận thấy đây là một khối lượng công việc khổng lồ, nhưng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của DATC.

Chúng tôi đã huy động tổng lực các nguồn lực từ con người, vật chất đến kinh nghiệm để xây dựng các phương án tái cơ cấu cho Vinashin. Điều quan trọng vẫn là trả lời câu hỏi “cứu doanh nghiệp có lợi hay không?”.

Do đó, phải tính toán hiệu quả của phương án xử lý. Nếu tái cơ cấu mà quá tốn kém và không đem lại hiệu quả xã hội thì cho giải thể phá sản vẫn hơn. Nhưng nhìn ở một khía cạnh khác, việc phá sản một doanh nghiệp có thể tốn kém hơn và gây nhiều hệ lụy xã hội. Như vậy, bài toán tái cơ cấu từng doanh nghiệp cần được giải một cách hợp lý nhất.

2. Báo Nhà báo và Công luận có bài Khi người dân không còn tin “công bộc”!. Bài báo phản ánh: Chính quyền cơ sở yếu kém, đạo đức xuống cấp, tuyên truyền luật chưa tốt… đã dẫn tới nhiều vụ việc người dân thay chính quyền, tự xử lý những vi phạm pháp luật, bất chấp pháp luật… Những sự vụ đang nóng bỏng trong xã hội được UB Thường vụ QH đưa ra để phác họa bức tranh về tình hình an ninh trật tự, phòng chống tội phạm năm qua.

Thời gian gần đây, đã xảy ra hàng loạt vụ việc, hành vi bất chấp pháp luật, tấn công, xâm hại đến sự an toàn sức khỏe cũng như tính mạng của người khác, đặc biệt là những người đang làm nhiệm vụ hoặc thi hành công vụ, là tội phạm. Những hành vi đó phải bị xử lý theo pháp luật hình sự hoặc luật xử phạt vi phạm hành chính tùy theo mức độ nặng nhẹ. Theo luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn Luật sư TP. HCM), có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc một số người dân hành xử vô lối, vi phạm pháp luật. Đó có thể xuất phát từ tâm lý bức xúc trước những thiệt hại vật chất và phi vật chất, những tổn thất tinh thần không gì bù đắp được. Đó cũng có thể xuất phát từ những hành vi chưa chuyên nghiệp, vi phạm điều lệnh, nội quy, quy trình, thủ tục thẩm quyền trong khi thi hành công vụ, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, hách dịch, cửa quyền có tác phong ứng xử không đúng mực của những người thi hành công vụ. Đặc biệt, những quy định của pháp luật còn chưa hợp lý, nhiều bất cập khiến người dân mất niềm tin vào công lý nên đã tự hành xử theo “luật” của riêng mình. Rõ nhất là những vụ người dân bị mất trộm chó, pháp luật quy định người nào trộm cắp tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người dân bắt kẻ trộm chó giao công an, sau đó đối tượng này được thả ra vì giá trị tài sản không đủ để cấu thành tội phạm. Kẻ trộm tiếp tục trộm cắp và còn sử dụng hung khí hành hung người dân để tẩu thoát nên khi bắt được kẻ trộm, người dân đã “tự xử”.

Còn theo luật sư Đỗ Hải Bình (Đoàn Luật sư TP. HCM), nguyên nhân lớn nhất khiến người dân hành xử bạo lực xuất phát từ sự thiếu niềm tin vào xã hội, đặc biệt là chính quyền. Trong những vụ hành hung y, bác sĩ, CSGT… vừa qua, xuất phát từ việc một số y, bác sĩ yếu kém về chuyên môn, hành xử thiếu trách nhiệm; một bộ phận lực lượng CSGT có hành vi tiêu cực hay việc nghiêm trị tội phạm tham nhũng còn dễ dãi…

 “Tình trạng “tự xử” trong bộ phận dân chúng như tự bắt trộm chó, tự thuê xã hội đen đòi nợ, tự thiêu, tự bắn cán bộ… là do việc không hành động, thiếu trách nhiệm của chính quyền khiến người dân thiếu tin tưởng”… Đây là vấn đề ủy viên thường trực UB Tư pháp Đỗ Văn Đương đặt ra trong phiên thảo luận về công tác phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, công tác tư pháp năm 2013 tại UB Thường vụ QH vừa qua.

Theo hướng suy luận này, đại biểu Đỗ Văn Đương cũng cho rằng báo cáo về tình hình tội phạm của Chính phủ chưa phản ánh đúng tình hình thực tế, những vi phạm trong y tế, giáo dục, khai thác tài nguyên khoáng sản… chưa đề cập mà lại “đổ hết tội” cho cơ quan pháp luật trong khi nhiều vấn đề phát sinh thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương. Ông Đương đề cập tình trạng “không hành động” của chính quyền địa phương. Dẫn chứng từ vụ chôn thuốc trừ sâu ở Thanh Hóa, ông Đương khẳng định đủ căn cứ khởi tố bắt giam ngay người đứng đầu doanh nghiệp có hành động “lắt léo”, vi phạm hết sức nghiêm trọng nhưng địa phương không hề có động thái gì.

Mổ xẻ sâu thêm vấn đề, Phó Chủ nhiệm UB Tư pháp Nguyễn Văn Luật “phê” báo cáo của Chính phủ chưa làm rõ vấn đề địa chỉ trách nhiệm, trách nhiệm của Bộ trưởng, trưởng ngành hay Chủ tịch UBND, giám đốc Sở, trưởng ngành đến đâu. Ông Luật dẫn lại chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ về việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu địa bàn để xảy ra tình trạng tội phạm có tổ chức, hoạt động kiểu băng nhóm xã hội đen. Dù vậy, nghịch lý vẫn diễn ra, từ vụ Tiên Lãng tới vụ nhân bản xét nghiệm ở Hoài Đức, vụ chôn thuốc sâu ở Thanh Hóa… chỉ khi lãnh đạo Chính phủ lên tiếng, yêu cầu xử lý nghiêm, báo cáo trong thời hạn cụ thể thì việc mới “chạy”, người dân mới yên tâm. Những vụ án hình sự nghiêm trọng khi CQĐT Bộ Công an vào cuộc thì cử tri cũng mới chắc mẩm sự việc được xử lý rốt ráo. Còn nếu cứ để địa phương xử lý, người dân sẽ vẫn lo lắng là việc lại… chìm xuồng.

3. Báo Người Lao động có bài Chính thức bỏ ghi tên cha mẹ trên CMND. Bài báo phản ánh: Chính phủ vừa quyết định bỏ ghi tên cha mẹ trên chứng minh nhân dân.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 106/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999 và Nghị định 170/2007 về chứng minh nhân dân (CMND). Theo đó, từ ngày 2-11-2013 sẽ bỏ cụm từ “họ và tên cha”, “họ và tên mẹ” tại mặt sau của CMND.

Đối với những CMND đã được cấp theo quy định tại Nghị định 170/2007 hiện hành vẫn có giá trị sử dụng đến khi hết thời hạn theo quy định (15 năm).

Trước đó, ngày 16-5-2012, Bộ Công an ban hành Thông tư 27/2012 quy định về mẫu CMND mới (12 số thay vì 9 số và có phần ghi họ tên cha mẹ công dân). CMND mới là thẻ nhựa kích thước 85,6 mm x 53,98 mm, mặt trước có những thông tin cơ bản của công dân như họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quê quán, nơi thường trú. Đáng chú ý, mặt sau của CMND mới ngoài dấu vân tay, đặc điểm nhận dạng… còn có nêu nội dung đặc điểm thân nhân gồm: “Họ và tên cha; Họ và tên mẹ”.

Sau đó việc cấp CMND mới được Bộ Công an triển khai thí điểm tại 3 quận, huyện ở Hà Nội và ngay lập tức gặp những phản ứng dữ dội từ phía dư luận. Trong đó, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp cho rằng việc đưa tên cha, mẹ vào CMND là không phù hợp Bộ Luật Dân sự và Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết tham gia.



File đính kèm