Điểm tin báo chí các ngày 14, 15 tháng 9 và sáng ngày 16 tháng 9 năm 2013

16/09/2013
Trong các ngày 14, 15/9 và đầu giờ sáng ngày 16/9/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Đại đoàn kết có bài Luật sửa đổi: Chú trọng hôn nhân hơn gia đình?. Bài báo phản ánh: Sau 13 năm thực hiện, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã lỗi thời, bộc lộ nhiều hạn chế, không phù hợp với thời điểm hiện tại. Để khắc phục những lỗ hổng này, Bộ Tư pháp vừa soạn thảo và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội luật sửa đổi. Tuy nhiên, thay vì chỉ sửa đổi một số điều theo dự kiến ban đầu, luật trình lần này đã bổ sung tới 53 điều, sửa đổi 64 điều, bãi bỏ 2 chương và 8 điều so với luật hiện hành, nâng tổng số điều từ 110 điều lên 134 điều. 

Vấn đề cho phép mang thai hộ là một điểm mới của luật lần này, mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Theo đó, dự thảo Luật nghiêm cấm việc mang thai hộ vì mục đích thương mại và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với các điều kiện ràng buộc cụ thể, quy định quyền, nghĩa vụ các bên có liên quan và việc giải quyết tranh chấp. Quy định trên đã nhận được sự đồng tình của nhiều vị đại biểu Quốc hội và các nhà làm luật. Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhằm đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu chính đáng của nhiều cặp vợ chồng không có khả năng sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, góp phần bảo vệ hạnh phúc gia đình. Hiện nay, với tiến bộ của y học trong nước có thể thực hiện được việc này, nhưng nếu không có khuôn khổ pháp lý, vì nhu cầu một bộ phận người dân vẫn thực hiện sẽ phát sinh nhiều hệ lụy trước mắt và lâu dài. 

Là người gần như gắn trọn cả cuộc đời với vấn đề bảo vệ phụ nữ, trẻ em, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội - Trương Thị Mai khi thẩm tra về dự án luật này đã khẳng định: "Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, tạo cơ hội cho một số cặp vợ chồng được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ chính đáng”. Quan điểm này của bà Mai đã nhận được  sự đồng tình ủng hộ của nhiều đại biểu. 

Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra trong luật là cần phải nghiên cứu làm rõ khái niệm "không vì mục đích thương mại” để tránh tình trạng lợi dụng kẽ hở này để mà lách luật. "Đây là vấn đề mới, chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên các quy định phải rất chặt chẽ, điều kiện phải rõ ràng cũng như hình thức pháp lý của thỏa thuận, bảo đảm quyền cho các bên và nhất là đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này. Nếu không, sẽ tạo điều kiện hợp pháp hóa cho mục đích thương mại hoặc buôn bán trẻ em”- Bà Trương Thị Mai chỉ rõ. Phó Chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn cho rằng: "Vì mang thai ảnh hưởng đến cả sức khỏe người mang thai. Tuy nhiên luật lại không có quy định gì về chăm lo sức khỏe cho người mang thai hộ? Lỡ người mang thai hộ mà tử vong thì trách nhiệm của người nhờ mang thai hộ như thế nào?”

 Đó chính là vấn đề được Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý đặt ra khi vấn đề hạ độ tuổi được phép kết hôn của nam giới xuống còn đủ 18 tuổi (bằng nữ giới). Theo ông Lý, tuổi kết hôn lúc trước nam là từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi. Giờ hạ tuổi nam xuống còn 18 tuổi thì phải tổng kết và đánh giá. Ở Việt Nam, kết hôn thì phải đi với gia đình. Vậy nam 18 có lo được cho gia đình hay không? Từ đó ông Lý cho rằng, lúc đầu phạm vi sửa đổi của luật chỉ một số điều, nhưng giờ lại mở rộng ra rất nhiều vấn đề. Cho nên, cần rà soát các điểm sửa đổi đã đủ điều kiện sửa đổi hay chưa? Nếu chuyển sang luật sửa đổi, thì rà soát lại toàn bộ các quy định. Nếu sửa đổi toàn diện thì phải đưa vào, nghiên cứu nhiều nội dung. "Một nhược điểm quan trọng của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là nặng về quy định hôn nhân mà nhẹ về gia đình. Nếu đã quyết định sửa đổi toàn diện thì phải khắc phục cho được nhược điểm này”. Vì vậy, chỉ những nội dung thật "chín” mới sửa đổi, bổ sung và đã quyết định luật hóa thì phải triệt để”- ông Lý nói. 

Việc hạ tuổi kết hôn của nam xuống còn 18 tuổi cũng nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Theo lý giải của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, quy định độ tuổi kết hôn của cả nam lẫn nữ từ đủ 18 tuổi trở lên là để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của Luật Hôn nhân và gia đình với quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự trong công nhận, thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với các cam kết quốc tế của Việt Nam về trẻ em và bình đẳng giới. 

Tuy nhiên, bên cạnh đó, quy định hạ tuổi kết hôn của nam xuống còn 18 tuổi đang gặp phải nhiều ý kiến không tán thành khi cho rằng, nên giữ nguyên độ tuổi kết hôn như Luật hiện hành là nam từ đủ hai mươi tuổi và nữ từ đủ mười tám tuổi vì quy định này đã được áp dụng ổn định trong hơn 50 năm, từ khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, và xuất phát từ những cơ sở khoa học về tâm lý lứa tuổi, sức khỏe con người Việt Nam.

Tuổi kết hôn luôn là nội dung pháp lý quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình ở tất cả các nước và cũng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong quy định về vấn đề này. Một số ít nước quy định độ tuổi kết hôn theo nguyên tắc chỉ người đã thành niên mới được kết hôn. Đơn cử như Luật hôn nhân Trung Quốc quy định tuổi kết hôn của nam là từ đủ 22 tuổi và nữ từ đủ 20 tuổi. Như vậy, việc hạ tuổi kết hôn của nam xuống còn 18 tuổi như dự thảo luật lần này liệu có hợp lý?

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Phát quang “rừng số”, “rừng giấy tờ”. Bài báo phản ánh: Đề xuất cấp sổ hộ tịch và số định danh cá nhân cho công dân trong Dự thảo Luật Hộ tịch được kỳ vọng là sẽ phát quang “rừng số”, “rừng giấy tờ”, qua đó giúp người dân thuận lợi hơn trong giao dịch cũng như giúp cơ quan nhà nước dễ dàng hơn trong quản lý. Tuy nhiên, để điều này trở thành hiện thực thì còn rất nhiều yêu cầu phải hoàn thiện, đặc biệt là phải triển khai hiệu quả Quyết định số 896/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Ước tính ở Việt Nam mỗi người có khoảng 20 loại giấy tờ tùy thân, trong khi nhiều nước chỉ có 1 loại, có thể dùng cả trong và ngoài nước.

Mỗi loại giấy tờ đều có số khác nhau, nhưng lại có điểm chung chứa đựng những thông tin cơ bản về hộ tịch của cá nhân (họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch...).

Phó Chủ tịch UBND phường Phố Huế (Hà Nội) Doãn Đức Bảo từng cho biết, nếu số định danh cá nhân, như đề xuất trong Dự thảo Luật Hộ tịch mà Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng, có đủ 22 thông tin nêu thì sẽ rất hữu ích. Hiện nay, ở cấp phường quản lý hơn 150 loại mẫu giấy tờ liên quan tới thủ tục hành chính. Chỉ tính trung bình, mỗi ngày một cán bộ tiếp dân phải giải quyết 50 hồ sơ. “Đa số người dân đến làm giấy xác nhận xin việc làm, làm bản sao các loại giấy tờ tùy thân… Một cán bộ phải chạy như con thoi từ phòng này sang phòng khác, trong đó phải sang phòng lãnh đạo phường để lấy chữ ký” – ông Bảo nói.

Theo vị Phó chủ tịch phường, nếu số định danh cá nhân có đầy đủ thông tin về một công dân thì sẽ giúp cho phường rất nhiều trong công tác quản lý. Vấn đề là người dân có trung thực, tự giác khi cung cấp thông tin đúng về 22 nội dung nêu hay không bởi nhiều công dân thay đổi chỗ ở, hộ khẩu, sinh con thứ 3 ở nơi khác không tự túc khai báo thì cán bộ phường cũng không thể quản hết mà cập nhật vào được.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý cho biết, đa số ý kiến của Thường trực Ủy ban Pháp luật tán thành với quy định của Dự thảo Luật. Nhưng cũng có ý kiến đề nghị làm rõ nội hàm của số định danh công dân thế nào, bao gồm những nội dung gì? Có bảo đảm được quyền bí mật đời tư không? “Cần làm rõ những điểm này để tiến tới mỗi người dân chỉ có một mã số quản lý duy nhất dùng chung cho các giấy tờ cá nhân do cơ quan nhà nước cấp” - ông Phan Trung Lý nhận định.

Bên cạnh đó, một số ý kiến cho rằng Dự thảo Luật quy định số định danh công dân chỉ được cấp cho công dân Việt Nam “sinh ra kể từ ngày Luật này có hiệu lực”, nghĩa là đối với hơn 87 triệu người dân sinh ra trước đó thì không được cấp số định danh và vẫn được quản lý theo cơ chế cũ. Như thế, quy định mới về việc cấp số định danh công dân không phát huy được tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý.

Tuy nhiên, với việc Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 896 phê duyệt Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 và cuối tuần qua, Ban Chỉ đạo Đề án đã họp triển khai thì có thể thấy rõ quyết tâm của Chính phủ trong tổ chức thực hiện cấp số định danh cá nhân, tiến tới cụ thể hóa trong Dự án Luật Hộ tịch.

Theo đó, từ năm 2013 - 2014, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc cấp mã số định danh, xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, rà soát đề xuất phương án cải cách thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư. Từ năm 2015 - 2020, sẽ xây dựng, vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và triển khai cấp mã số định danh cá nhân. Cụ thể, từ năm 2016, sẽ thực hiện việc nhập thông tin cơ bản về công dân vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cấp số định danh cá nhân.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin về Những thông tin văn bản chỉ đạo, điều hành nổi bật trong tuần của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từ 9-13/9/2013.

- Năm 2014, phấn đấu GDP khoảng 5,8%

Tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều  hành lãi suất phù hợp với mục tiêu lạm phát khoảng 7%; đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đề ra; tiếp tục điều chỉnh nguồn tín dụng hướng vào những lĩnh vực ưu tiên; tập trung xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng; kiểm soát chặt chẽ và giữ ổn định tỷ giá ngoại tệ và thị trường vàng.

Về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014, Chính phủ quyết nghị: Trên cơ sở tình hình thực hiện tháng 8 và 8 tháng đầu năm, ước thực hiện 9 tháng đầu năm và cả năm 2013; dự báo tình hình kinh tế thế giới và trong nước, một số chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của năm 2014 cần phấn đấu đạt mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 5,8%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) khoảng 7%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10 % so với năm 2013.

Về sơ kết 3 năm (2011-2013) thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ quyết nghị: Tiếp tục đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia đã ghi trong kế hoạch từ nay đến năm 2015. Sau năm 2015, thực hiện cải cách cơ chế, chính sách đối với các chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng chỉ bố trí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho một số lĩnh vực trọng tâm như xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

- Đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong phòng, chống mại dâm

Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tiếp tục chỉ đạo các địa phương tăng cường trách nhiệm quản lý địa bàn, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm.

Đồng thời thường xuyên tham mưu, đề xuất các giải pháp có hiệu quả đối với công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm.

Phó Thủ tướng cũng giao Bộ Y tế khẩn trương trình Thủ tướng xem xét, ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phòng, chống mại dâm trong tình hình mới; xây dựng, đề xuất đề án sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh phòng, chống tệ nạn mại dâm.

- Từng bước thí điểm thị trường bán buôn điện cạnh tranh

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam chuẩn bị các điều kiện, xây dựng các quy định cần thiết để từng bước thực hiện thí điểm và hình thành thị trường bán buôn điện cạnh tranh tại Việt Nam.

Đó là ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại Thông báo số 344/TB-VPCP về kiểm điểm tình hình thực hiện Thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam.

- Kiểm tra, xử lý vụ chôn thuốc sâu của Công ty Nicotex

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa kiểm tra, xử lý theo thẩm quyền vụ việc Công ty Nicotex chôn thuốc sâu độc hại, gây bức xúc trong dư luận thời gian qua; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/9/2013.

2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Bộ Công an nói về nguyên nhân vụ nổ súng tại Thái Bình. Bài báo đưa tin: Cổng thông tin điện tử Bộ Công an vừa thông tin về xử lý vụ sử dụng súng bắn chết và bị thương nhiều người ở Thái Bình.

Theo đó, 13h55 ngày 11/9, Đặng Ngọc Viết (SN 1971, ở phường Kỳ Bá, TP. Thái Bình, tỉnh Thái Bình) đến Trung tâm phát triển quỹ đất TP. Thái Bình ở phường Trần Hưng Đạo, TP. Thái Bình, dùng súng (dạng súng côn quay của Trung Quốc, bắn đạn chì) bắn bị thương 04 người (anh Vũ Ngọc Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm; anh Nguyễn Thành Dương, anh Vũ Công Cương và anh Bùi Đức Xuân, đều là cán bộ của Trung tâm).

Sau khi đưa đến bệnh viện cấp cứu, đến 20h cùng ngày, anh Dũng đã tử vong.

Sau khi gây án, Đặng Ngọc Viết bỏ trốn, đến khoảng 19h cùng ngày, phát hiện Viết dùng súng tự sát tại chùa Đông Sơn, xã Trà Giang, huyện Kiến Xương.  

Về nguyên nhân vụ việc, Cổng thông tin điện tử Bộ Công an cho biết: Qua điều tra, bước đầu được biết, tháng 5/2013, UBND thành phố Thái Bình triển khai khu dân cư tái định cư và công trình công cộng tại phường Kỳ Bá, đã thu hồi 181,6m2 đất của gia đình Đặng Ngọc Viết, Trung tâm phát triển quỹ đất đang lập phương án trình UBND Thành phố phê duyệt.

Gia đình của Viết không thống nhất phương án bồi thường, do đó Trung tâm phát triển Quỹ đất đang lập phương án trình UBND Thành phố phê duyệt.

Công an địa phương đang tiếp tục điều tra, làm rõ.

3. Thời báo Kinh tế Việt Nam có bài 99% doanh nghiệp sẽ trong diện phá sản?. Bài báo phản ánh: Cho rằng Luật Phá sản (sửa đổi) đưa ra khái niệm phá sản quá đơn giản và thiếu thực tế, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Phùng Quốc Hiển lo ngại “sẽ dẫn tới 99% doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay nằm trong diện phá sản”.

Theo dự thảo Luật Phá sản sửa đổi, doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng Việt Nam trở lên trong thời gian ba tháng, kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.

Cho ý kiến về luật này tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Phùng Quốc Hiển nói: “Phá sản là một hiện tượng của kinh tế thị trường trong kinh doanh. Nhưng như thế nào là phá sản? Định nghĩa của cơ quan soạn thảo đưa ra quá đơn giản, chỉ là mất khả năng thanh toán. Không phải một món nợ 200 triệu đồng sau 3 tháng không trả được mà quyết định rằng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Tôi cho rằng, phải dùng từ mất toàn bộ khả năng thanh toán”.

Ông Hiển phân tích: “Đi vào thực tế của doanh nghiệp hiện nay, thực ra vốn chủ sở hữu và quá trình luân chuyển của đồng vốn chỉ có 15-20% trong toàn bộ hoạt động kinh doanh, còn lại là vay ngân hàng. Vậy mà dự thảo lại đưa ra con số 200 triệu đồng thì tôi thấy không ổn. Vừa qua, có những doanh nghiệp của chúng ta số nợ gấp 10 lần vốn chủ sở hữu vẫn chưa phá sản vì nó vẫn còn có một luồng tiền của ngân hàng bơm vào, vẫn cân đối được. Cho nên khái niệm về phá sản như trong dự thảo Luật này quá đơn giản và cũng không thực tế. Không thể là 200 triệu đồng được. Ngay cả tỷ lệ là bao nhiêu trên vốn chủ sở hữu chúng ta cũng phải tính, có thể 2 lần, 3 lần. Cùng đó, thời gian 3 tháng là ngắn quá, theo tôi đến 6 tháng cũng chưa phải là ghê gớm lắm”.

Chung một quan điểm như vậy, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho rằng, đưa ra khái niệm về phá sản như dự thảo Luật là “vô lý” và cật vấn: “Căn cứ vào đâu đưa ra tổng khoản nợ 200 triệu đồng mà đã tuyên bố rằng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản? Một doanh nghiệp có đồng vốn vài triệu đồng, thậm chí doanh nghiệp vài triệu, vài chục triệu đồng với doanh nghiệp có vài trăm tỷ đồng, vài nghìn tỷ đồng mà lại bảo hòa nhau hết: cứ có khoản nợ 200 triệu đồng và thời hạn đòi là 3 tháng chưa trả là lâm vào tình trạng phá sản? 200 triệu đồng đối với doanh nghiệp có 500 triệu đồng vốn kinh doanh, thì khoản nợ này chiếm tới 1/2 tổng số vốn đăng ký kinh doanh. Nhưng 200 triệu đồng này đối với những doanh nghiệp có vốn kinh doanh hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm ngàn tỷ đồng thì đây chỉ là tỷ lệ rất nhỏ mà lại bảo doanh nghiệp này cũng lâm vào tình trạng phá sản thì không thể chấp nhận được”.

Cũng theo ông Hiện, nếu có đưa ra điều kiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì nên cân nhắc điều kiện tổng số nợ không trả được đến hạn so với phần trăm vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp, chưa nói đến những vốn khác, để đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã đến mức lâm vào tình trạng phá sản hay chưa? Nguồn vốn của doanh nghiệp có nhiều thứ, nhưng không thể căn cứ vào số nợ cụ thể. Về thời hạn 3 tháng, theo Chủ nhiệm ủy ban Tư pháp, cũng phải cân nhắc lại, vì quá ngắn.

Nói “tôi cũng lăn tăn về mức 200 triệu đồng này”, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc K’Sor Phước đề xuất trong luật này nên đưa ra một quy định đề cập về các mức cảnh báo: “Cảnh báo thứ nhất là ở mức độ nào thì doanh nghiệp đứng trước nguy cơ sẽ bị phá sản để điều chỉnh lại hoạt động quản lý kinh doanh. Cảnh báo thứ hai là mức cảnh báo tương đối nguy cấp, tức là doanh nghiệp vẫn còn điều kiện để sản xuất kinh doanh nhưng đã đến ngưỡng của phá sản. ở giai đoạn này, chủ nợ không tiếp tục đóng góp vào nữa hoặc nếu đóng góp thì phải tổ chức ngay các đại hội, nếu cổ phần thì phải tổ chức đại hội cổ đông để được biết những thông tin đó và quyết định rút vốn hay không rút vốn mà tăng cường thêm vốn. Qua mức 2 là sang bước phải tiến hành làm thủ tục phá sản”.

“Nhìn vào thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã và tình hình sản xuất, kinh doanh hiện nay, đúng là nhiều doanh nghiệp như dư luận hay nói là “chết chưa chôn được”. Đây là một thực tế đang đặt ra. Trong Nghị quyết, chủ trương của Đảng cũng đã xác định rất rõ là cần phải sửa đổi một cách căn bản Luật Phá sản hiện nay”, Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nhận định.

Nêu ra con số hơn 54.000 doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhưng 9 năm qua chỉ có thụ lý được hơn 360 đơn và ra được quyết định có 83 trường hợp phá sản, ông Lưu đề nghị trong cơ quan soạn thảo dự án Luật và cơ quan thẩm tra, phải đánh giá, phân tích một cách sâu sắc thuyết phục hơn tình trạng hiện nay về thủ tục phá sản khó khăn hay không mà chỉ giải quyết được ít như vậy.

Phải trả lời một cách sâu sắc đó là việc không giải quyết được vấn đề phá sản theo đúng yêu cầu của pháp luật và tinh thần của cải cách đổi mới kinh tế thì nó tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế nước ta như thế nào, nhất là trong quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp theo nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Quốc hội?



File đính kèm