I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Giáo dục và Thời đại có bài Hợp đồng hôn nhân giả, trẻ chưa thể đăng ký khai sinh. Bài báo phản ánh: Nhiều trẻ em ở xã Tam Diệu (Lục Nam, Bắc Giang) mặc dù đã 4, 5 tuổi nhưng vẫn chưa thể đăng ký khai sinh. Đây là hậu quả của việc người lao động Việt Nam vì muốn tìm mọi cách sang nước ngoài làm ăn, thậm chí kể cả việc làm giấy đăng ký kết hôn giả với người nước ngoài sở tại mà lại không tính đến hậu quả khiến cho những những đứa trẻ sinh ra không được hưởng quyền lợi chính đáng.
2. Báo Hà Nội mới Online có bài Liên thông giải quyết thủ tục hành chính: Phải chuẩn hóa quy trình. Bài báo phản ánh: Thủ tục hành chính (TTHC) rườm rà vẫn đang là trở ngại với người dân, doanh nghiệp. Trước thực trạng đó, Hội đồng Tư vấn (HĐTV) cải cách TTHC và Cục Kiểm soát TTHC đang đề xuất mô hình liên thông trong giải quyết TTHC.
Song để những mô hình này được áp dụng trên thực tế, mang lại hiệu quả cho tổ chức, doanh nghiệp và người dân thì cần phải chuẩn hóa các văn bản, quy trình cũng như có sự phối hợp chặt chẽ từ các cơ quan.
Một trong những vướng mắc đang làm khó DN là thủ tục đầu tư. Nhà đầu tư muốn xây dựng một nhà máy phải trải qua 18 TTHC "con" thuộc 4 lĩnh vực đầu tư, đất đai, môi trường, xây dựng. Trong khi đó, không có quy định rõ thủ tục nào thực hiện trước, thủ tục nào sau nên nhà đầu tư phải mất nhiều thời gian tìm hiểu, chưa kể mỗi địa phương lại áp dụng một quy trình khác nhau. Chẳng hạn, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, tại Hà Tĩnh, để được nghiên cứu lập dự án thì nhà đầu tư phải thực hiện các thủ tục theo trình tự từ chấp thuận chủ trương đầu tư (tại UBND tỉnh, Ban quản lý khu kinh tế), giới thiệu địa điểm đầu tư (Sở Xây dựng, Ban quản lý khu kinh tế) đến quyết định cho phép khảo sát và phê duyệt quy hoạch dự án đầu tư.
Tại Hà Nội, nhà đầu tư thực hiện theo trình tự lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu. Còn tại Huế, nhà đầu tư phải thực hiện theo trình tự từ chấp thuận chủ trương nghiên cứu dự án, cấp chứng chỉ quy hoạch đến chấp thuận cho phép triển khai dự án… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là sự thiếu nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hiện hành. Quy định khác nhau đã dẫn đến cách hiểu và vận dụng khác nhau giữa các địa phương về việc xác định cơ quan chủ trì trong việc thực hiện TTHC.
Tương tự, để thực hiện thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú và cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) cho trẻ dưới 6 tuổi, nếu hồ sơ đầy đủ, người dân thường mất ít nhất 6 buổi và 12 lần đi lại tại hai cơ quan khác nhau (UBND cấp xã, CA cấp xã). Công dân phải cung cấp cho mỗi cơ quan thẩm quyền giải quyết nhiều thông tin cá nhân, trong đó cơ bản các thông tin trùng lắp (họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú; họ và tên cha, mẹ…). Điều đáng nói là những TTHC này đều tồn tại trên toàn quốc nhưng lại chưa có VBQPPL hướng dẫn thống nhất về mặt trình tự cũng như cơ chế phối hợp giải quyết, dẫn đến việc thực hiện thủ tục khó khăn, thời gian thực hiện kéo dài, gây tốn kém và lãng phí.
Hiện một số địa phương như TP Hồ Chí Minh và một số huyện của tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp… đã thí điểm mở rộng mô hình một cửa liên thông giải quyết TTHC. Kết quả cho thấy, đối với các TTHC như đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi tại TP Hồ Chí Minh, thời hạn giải quyết được rút ngắn xuống còn 11 ngày, tỉnh Long An còn 10 ngày; với thủ tục đăng ký khai tử, xóa thường trú, tại TP Hồ Chí Minh thời gian giải quyết là 6 ngày, còn tỉnh Long An chỉ còn 4 ngày. Điều này đã giúp tiết kiệm chi phí thực hiện TTHC và tạo nên sự liên thông trong việc quản lý dân cư giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và cơ quan đăng ký thường trú. Tuy nhiên, do mô hình này mới thực hiện đơn lẻ ở các địa phương nên mỗi địa phương xây dựng một đề án và tổ chức thực hiện riêng dẫn đến không thống nhất. Hơn nữa, việc triển khai mô hình liên thông này được thực hiện trên cơ sở quyết định của chủ tịch UBND cấp tỉnh mà thẩm quyền thực hiện 5 TTHC trên lại chỉ có thủ tục đăng ký khai sinh, khai tử thuộc UBND cấp xã, còn 3 thủ tục còn lại thuộc thẩm quyền của bảo hiểm xã hội và CA (chịu sự quản lý theo ngành dọc) nên công tác phối hợp còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện HĐTV cải cách TTHC đang nghiên cứu nhân rộng mô hình liên thông giải quyết TTHC đối với các thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi; đăng ký khai tử, xóa thường trú. Nhóm nghiên cứu của Tổ công tác liên ngành của Cục Kiểm soát TTHC cũng đề xuất liên thông trong giải quyết TTHC trong thực hiện dự án đầu tư, theo đó sẽ duy trì một đầu mối cung cấp thông tin theo hướng một Cổng thông tin quốc gia tập trung. Như vậy, tổ chức, công dân trên cả nước cùng dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu về TTHC. Tuy nhiên, điều cốt lõi để gỡ "vướng" trong thực hiện thủ tục là phải có sự thống nhất từ các VBQPPL để bảo đảm thực hiện đồng bộ giữa các địa phương, đơn vị; tiếp đó, phải có quy trình chuẩn, rõ ràng đối với từng cơ quan, thời hạn giải quyết cũng như chế tài xử lý sai phạm thì mới tránh được tình trạng liên thông nhưng vẫn "tắc".
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Văn bản sai vẫn “lọt”, “tuýt còi” lắm mất thiêng. Bài báo phản ánh: Hiện nay nhiều văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) khi mới chỉ là sơ thảo, dự thảo đã khuấy động dư luận bởi quan ngại nếu thực thi trên thực tế thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Nhiều ý kiến cho rằng chất lượng ban hành văn bản có vấn đề, không chỉ vì sức ép thời hạn, thủ tục mà còn do trình độ nguồn nhân lực.
Theo kết quả khảo sát chất lượng thẩm định của Bộ Tư pháp đối với các dự thảo VBQPPL được công bố mới đây, 62,8% ý kiến được hỏi cho rằng một số trường hợp chưa phát hiện ra những mâu thuẫn trong dự thảo VBQPPL với các quy định pháp luật khác.
56% ý kiến cho rằng một số trường hợp chưa phát hiện ra sự phù hợp với thực tiễn của dự thảo VBQPPL. 39,9% ý kiến được hỏi cho rằng việc thẩm định chưa bảo đảm tính khả thi, đơn giản hóa của các thủ tục hành chính trong dự thảo VBQPPL. 71% ý kiến được hỏi cho rằng thời hạn thẩm định hiện nay không bảo đảm (quá ngắn).
52% ý kiến cho rằng thành phần Hội đồng thẩm định do Bộ Tư pháp thành lập chưa đầy đủ, còn khép kín, chưa huy động sự tham gia rộng rãi của các nhà khoa học, chuyên gia, các nhà quản lý trên các lĩnh vực, các ngành, trình độ một số thành viên còn hạn chế…Một số ít cơ quan , đơn vị chủ trì soạn thảo chưa quan tâm mời đơn vị chủ trì thẩm định tham gia ngay từ đầu quá trình soạn thảo VBQPPL. Một số trường hợp lấy ý kiến thẩm định chỉ mang tính hình thức, cơ quan soạn thảo không quan tâm, tiếp thu ý kiến thẩm định.
Theo Vụ các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp), cần có cơ chế rõ ràng để thu hút sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức, cá nhân vào quá trình thẩm định dự thảo VBQPL. Tại một số hội đồng, nội dung thẩm định còn phiến diện, một chiều, chưa đầy đủ, các lập luận chưa có tính thuyết phục cao.
Việc thẩm định còn mang tính nể nang, chưa đi sâu vào nội dung mà sa vào câu chữ, kỹ thuật. Nhiều hội đồng thẩm định không tránh khỏi những “gương mặt thân quen” do việc thu hút các chuyên gia các nhà khoa học chưa có sự thống nhất và tiêu chí rõ ràng.
Thực tế vai trò của cơ quan thẩm định chưa được coi trọng. Một số cơ quan chỉ xem thẩm định như một quy trình để hợp thức hóa hồ sơ dự thảo VBQPPL trình lên Chính phủ.
Theo thống kê của Cục Kiểm tra văn bản (Bộ Tư pháp),trong toàn quốc các cơ quan kiểm tra văn bản cả nước 10 năm qua đã tiếp nhận, kiểm tra trên 1,7 triệu văn bản, phát hiện hơn 50.000 văn bản sai trái và đã xử lý ở các mức độ khác nhau. Riêng Cục Kiểm tra văn bản đã tiếp nhận, kiểm tra trên 27.000 văn bản. Đã phát hiện trên 4.800 văn bản sai trái và đã xử lý ở các mức độ khác nhau.
Theo quy định của Chính phủ, bốn nhóm vấn đề cơ bản trong VBQPPL cần kiểm tra gồm: căn cứ pháp lý; thẩm quyền ban hành văn bản (thẩm quyền nội dung và thẩm quyền hình thức); Sự phù hợp với văn bản cấp trên; câu chữ, ngôn ngữ pháp lý, thủ tục, trình tự soạn thảo văn bản.
Ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản cho biết, quá trình kiểm tra cho thấy cả bốn nhóm vấn đề cơ bản đều có sai trong các văn bản của Bộ, ngành và địa phương. Đáng chú ý và quan trọng nhất là văn bản ban hành sai thẩm quyền nội dung, thẩm quyền hình thức cũng như đưa ra những quy định trái với văn bản cấp trên.
Nguyên nhân của thực trạng này là do các quan hệ xã hội ngày càng phát triển; điều chỉnh pháp luật ngày càng đi vào chiều sâu, do đó việc đưa ra các quy định phù hợp không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên xét về bản chất vấn đề yếu tố con người, cụ thể là trình độ của người tham gia soạn thảo ban hành văn bản không đáp ứng yêu cầu. Nhiều lúc người đứng đầu khoán trắng cho cấp dưới, cho chuyên viên thiếu sự quan tâm đúng mức.
Tuy cơ chế kiểm tra phát hiện nội dung sai trái của văn bản ngày càng được hoàn thiện. Tính chuyên nghiệp được nâng cao hơn do đó dễ hiểu là kết quả phát hiện ngày càng tốt hơn so với trước. Nhiều văn bản của các bộ, ngành, địa phương bị các cơ quan kiểm tra văn bản “tuýt còi” song việc điều chỉnh lại ngay hay không lại là câu chuyện khác. Vẫn còn có nhiều đơn vị này chưa nghiêm túc tự kiểm tra, khắc phục và gửi thông báo kết quả xử lý.
Quy định của Chính phủ là trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận thông báo về việc văn bản có dấu hiệu trái pháp luật, cơ quan, người đã ban hành văn bản phải tổ chức tự kiểm tra, xử lý văn bản đó và thông báo kết quả xử lý cho cơ quan kiểm tra văn bản.
Nếu các bộ và địa phương này tiếp tục không khắc phục, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử lý theo quy định.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Người đưa tin có bài Quy định mới: Việt kiều được mua nhà ở. Bài báo phản ánh:Theo hướng dẫn mới đây của Bộ Xây dựng, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, không phân biệt trong dự án phát triển nhà ở hay tại các khu dân cư hiện hữu.
Văn bản của Bộ Xây dựng gửi UBND các tỉnh, thành phố hướng dẫn thống nhất thực hiện chính sách, pháp luật về nhà ở, đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, ghi rõ, khi thực hiện công chứng hoặc chứng thực các giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam thì không yêu cầu phải có hộ khẩu thường trú và chứng minh thư nhân dân mà chỉ cần có hộ chiếu Việt Nam hoặc hộ chiếu nước ngoài kèm theo giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận gốc Việt Nam và các giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo đúng quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP.
Khi làm thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng và khi cấp giấy chứng nhận đối với nhà ở thì không bắt buộc người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải đáp ứng điều kiện cư trú thực tế tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên mà chỉ cần có các giấy tờ của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên là đủ điều kiện được mua và sở hữu nhà ở theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 19 của Thông tư số 16/2010/TT-BXD của Bộ Xây dựng.
Theo Bộ Xây dựng, đề nghị thống nhất thực hiện quy định về điều kiện cư trú 3 tháng cũng được hiểu là 90 ngày (theo quy định tại Điều 151 của Bộ Luật dân sự) mà cơ quan xuất nhập cảnh đóng dấu ghi vào hộ chiếu khi người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 66 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, không phân biệt trong dự án phát triển nhà ở hay tại các khu dân cư hiện hữu. Người Việt Nam ở nước ngoài cũng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tại khu vực được phép chia lô bán nền để tự xây dựng nhà ở.
Đây được coi là hướng dẫn “mở đường” trong khi thời gian qua, thực hiện chính sách, pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, một số địa phương khi thực hiện thủ tục công chứng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho kiều bào vẫn còn hiểu và thực hiện chưa thống nhất, chưa đúng quy định của Luật số 34/2009/QH12, Nghị định số 71/2010/NĐ-CP và Thông tư số 16/2010/TT-BXD nên đã gây nhiều khó khăn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi về Việt Nam mua và sở hữu nhà ở.