Điểm tin báo chí sáng ngày 02 tháng 4 năm 2010

02/04/2010
Trong buổi sáng ngày 02/4/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Chiều 1-4, bé gái Châu Linh Uyên (học sinh lớp 4 Trường tiểu học công lập Nguyễn Thái Bình, Q.1, TP.HCM) đã bị điện giật chết từ trụ thẻ ATM. Một số nhân chứng có mặt tại hiện trường vụ tai nạn cho biết sau giờ tan học, bé Uyên ngồi chờ gia đình đến đón tại vỉa hè phòng giao dịch Nguyễn Thái Bình - chi nhánh Mạc Thị Bưởi của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (NN&PTNT). Vỉa hè nơi bé Uyên ngồi cách cổng trường vài căn nhà. Khi đang đùa vui với các bạn, vô tình bé bị đụng vào trụ thẻ ATM đặt trước cửa phòng giao dịch của ngân hàng (101 Mạc Thị Bưởi, Q.1) và ngã ra bất tỉnh.
Theo Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn, 17g cùng ngày bé Uyên được nhập viện trong tình trạng tím tái toàn thân, ngưng tim, ngưng thở. Bé Uyên được các bác sĩ hồi sức cấp cứu nhưng không qua khỏi.Ngay sau đó, phòng kỹ thuật Điện lực Sài Gòn cùng cơ quan công an kiểm tra trụ thẻ ATM: phòng có cửa kính khung nhôm, có hộp đèn quảng cáo bên trên; từ hộp đèn của phòng thẻ phát hiện có đường điện bị rò rỉ ra toàn phòng thẻ. Bộ phận kỹ thuật Điện lực Sài Gòn ngắt điện đấu nối vào phòng ATM không thấy điện nhưng khi mở điện phòng ATM, lấy bút thử điện chạm vào bất kỳ bộ phận nào của phòng ATM cũng đều phát hiện bị nhiễm điện.
Theo biên bản hiện trường ban đầu, nguyên nhân gây ra hiện tượng nhiễm điện dẫn đến tai nạn nêu trên là do dây điện cấp nguồn chiếu sáng đèn quảng cáo được lắp đặt phía trên phòng ATM. Các dây điện cấp nguồn chiếu sáng có nhiều mối nối không đảm bảo an toàn, gây chập điện. Toàn bộ hệ thống điện ra phòng ATM do ngân hàng tự lắp đặt. Hiện cơ quan chức năng đã cắt điện, cô lập khu vực tủ thẻ ATM.
Ông Trần Dũng - trưởng phòng an toàn điện Công ty Điện lực TP.HCM - cho biết: “Điện lực Sài Gòn phát hiện nguồn điện cung cấp cho trụ thẻ được đấu nối từ phòng giao dịch của ngân hàng, việc đấu nối khá bất cẩn, dây dẫn điện trên nóc trụ thẻ ATM có nhiều mối nối bị hở, gây rò điện”.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Phiên họp Chính phủ hai ngày 31-3 và 1-4 tập trung thảo luận các vấn đề tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát. Thông tin tại buổi họp báo cùng ngày, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết GDP ba tháng đầu năm tăng 5,83%, cao hơn cùng kỳ năm trước. Chính phủ đánh giá tăng trưởng kinh tế có tín hiệu khả quan, song vẫn ở mức thấp so với nhiều năm và chưa vững chắc.
Kiểm soát lạm phát được thảo luận nhiều tại phiên họp này. Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính và các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu triển khai các giải pháp giảm thuế nhập khẩu, sử dụng quỹ bình ổn giá, kìm giữ chưa tăng giá xăng dầu. Chính phủ cũng sẽ lập đoàn kiểm tra, rà soát những dự án chưa cần thiết để cắt vốn, chuyển sang những dự án ưu tiên…
Chính phủ đã thông qua nghị định tăng mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông ở Hà Nội và TP.HCM. Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Hồng Trường cho biết mức xử phạt sẽ tăng 40%-200% đối với những hành vi vi phạm phổ biến và chỉ áp dụng thí điểm 36 tháng trong nội thành hai đô thị lớn.
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Sáng 1-4, Bộ LĐTB-XH và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã tổ chức hội thảo quốc gia về chủ đề “Tương lai của quan hệ lao động tại Việt Nam và việc sửa đổi Bộ Luật lao động và Luật Công đoàn".
Bà Phạm Lan Hương, Trưởng ban Hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, Bộ luật Lao động và các văn bản dưới luật được áp dụng từ năm 1995 với 3 lần sửa đổi và Luật Công đoàn năm 1990 hiện đã có nhiều quy định không còn phù hợp, khó áp dụng hoặc gây hậu quả bất lợi cho người lao động Việt Nam. Tiền lương tối thiểu của Việt Nam còn thấp hơn các nước trong khu vực khoảng 40%. Do chưa có cơ chế thỏa thuận về mức lương giữa doanh nghiệp và người lao động nên nhiều doanh nghiệp đã dựa trên lương tối thiểu của Nhà nước để đưa ra mức lương trả cho người lao động khá thấp.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Dạy luật, cấp bằng… quản trị kinh doanh. Bài báo phản ánh: Trong những ngày qua, nhiều học viên tốt nghiệp hệ đào tạo từ xa (các khóa 2005-2009, 2006-2010) như đứng ngồi trên lửa vì cho rằng mình học một đằng nhưng bị Trường ĐH Bình Dương cấp bằng một nẻo. Nhiều học viên trình bày, khi chiêu sinh hệ đào tạo từ xa, Trường ĐH Bình Dương thông tin rất rõ trên báo, đài: “Đào tạo ngành quản trị kinh doanh với các chuyên ngành: quản trị kinh doanh quốc tế, quản trị du lịch, quản trị kế toán, quản trị doanh nghiệp, luật kinh doanh”. Như vậy, ngay từ đầu nhà trường quy định rất rõ các chuyên ngành để học viên theo học.
Nhiều học viên vì có nhu cầu, nguyện vọng hoạt động trong lĩnh vực pháp lý, thấy trường chiêu sinh chuyên ngành luật kinh doanh nên bỏ công theo học. Theo thiết kế, chương trình đào tạo chuyên ngành luật kinh doanh có 20/49 môn học liên quan đến khối kiến thức luật như luật kinh doanh quốc tế, thương mại, kế toán, cạnh tranh, môi trường, bảo hiểm, đất đai… Thi tốt nghiệp, học viên cũng thi hai môn: luật điều tiết các loại hình doanh nghiệp, luật thương mại. Thế nhưng đầu năm 2010, các học viên lại chưng hửng khi nhà trường cấp bằng tốt nghiệp ĐH ngành quản trị kinh doanh.
Ngày 30-3, trao đổi với phóng viên Pháp Luật TP.HCM về vấn đề này, bà Tề Thị Kim Hồng, Phó phân hiệu Đào tạo không chính quy, Trường ĐH Bình Dương, cho biết: “Chúng tôi cấp bằng theo quy định của Bộ GD&ĐT, chuyên ngành luật được chứng nhận trong bảng điểm đi kèm. Trong văn bằng chỉ ghi ngành đào tạo là quản trị kinh doanh chứ không ai ghi chuyên ngành luật kinh doanh cả”. Chúng tôi đặt vấn đề: Theo quy định của Bộ GD&ĐT, bằng cấp ghi ngành gì thì được hiểu là người học đã được đào tạo chuyên môn về ngành đó, chứ không thể nhìn vào bảng điểm để công nhận chuyên môn người học. Bà Hồng bảo “chuyện này xin hỏi Bộ GD&ĐT”.
Đối chiếu với các văn bản pháp quy, chúng tôi được biết quy định quản lý văn bằng, chứng chỉ (theo Quyết định số 52/2002/QĐ-BGDĐT ngày 26-12-2002 của bộ trưởng Bộ GD&ĐT) có quy định rõ là: Bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, CĐ, ĐH có ghi thêm ngành đào tạo, hệ đào tạo, hình thức đào tạo, xếp loại tốt nghiệp. Ngành đào tạo được ghi đúng theo quy định danh mục ngành đào tạo trung học chuyên nghiệp, CĐ, ĐH hiện hành của nhà nước. Đối với những ngành đào tạo chưa có trong danh mục thì ghi ngành theo văn bản cho phép mở ngành của Bộ GD&ĐT. Tham khảo tại hệ đào tạo từ xa Trường ĐH Mở TP.HCM, ông Nguyễn Thuấn, hiệu phó nhà trường, cho biết tại trường này trên các văn bằng tốt nghiệp vẫn có ghi thêm chuyên ngành đào tạo.
Nhiều tổ chức, nhà trường khác đã không thừa nhận giá trị chuyên ngành luật kinh doanh của văn bằng do Trường ĐH Bình Dương cấp. Nhiều học viên cho biết sau khi nhận bằng, họ không thể theo học tiếp các khóa đào tạo luật sư. “Bản thân tôi muốn theo học ngành luật để hoạt động luật sư nhưng đến hôm nay hoàn toàn thất vọng. Tôi nộp đơn vào Học viện Tư pháp để theo học khóa luật sư nhưng ở đó không chấp nhận vì văn bằng tốt nghiệp ĐH của tôi không dính dáng gì đến luật cả!” - học viên HH bức xúc. Những học viên đi xin việc tại các văn phòng luật, công ty luật và doanh nghiệp liên quan chuyên môn luật cũng bị từ chối vì không ai công nhận văn bằng quản trị kinh doanh là có chuyên môn luật như nhà trường giải thích. “Chúng tôi cố gắng giải thích với các cơ quan rằng chúng tôi được đào tạo chuyên ngành luật, còn quản trị kinh doanh chỉ là tên ngành chung chung thôi nhưng không ai chấp nhận cả!” - anh Hồng Giang cho biết. Vì vậy, các học viên đề nghị Trường ĐH Bình Dương sớm điều chỉnh văn bằng ghi tên chuyên ngành đào tạo để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người học.
Ông PHAN MẠNH TIẾN, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD&ĐT): “Theo quy định, Bộ GD&ĐT ban hành chương trình khung ngành đào tạo, còn các trường được đào tạo chuyên ngành của trường mình. Bộ không duyệt chuyên ngành này. Vì vậy, trên mỗi văn bằng tốt nghiệp không ghi chuyên ngành đào tạo hẹp của các trường mà chỉ ghi ngành học rộng đã được Bộ GD&ĐT thông qua. Theo phản ánh của báo, sinh viên ĐH Bình Dương đào tạo theo hệ từ xa ngành quản trị kinh doanh chuyên ngành quản trị luật mà có cơ quan nào đó yêu cầu văn bằng phải thể hiện đúng chuyên ngành đào tạo là phi lý, không hiểu biết gì về luật. Trong bộ hồ sơ xin việc, cơ quan tiếp nhận có thể kiểm tra trên bảng điểm của từng môn học cụ thể mà các em được đào tạo. Năm ngoái có một vài trường ghi chuyên ngành đào tạo vào văn bằng tốt nghiệp của sinh viên. Việc này Vụ Giáo dục ĐH đã phải xử lý rất vất vả rồi. Lúc đầu sinh viên có vẻ rất phấn khởi nhưng sau khi ra trường không được đào tạo liên thông đã quay lại đòi kiện trường. Tôi xin nói thêm, việc ghi chuyên ngành trên văn bằng tốt nghiệp chỉ là vấn đề marketing của một vài trường nhằm thông báo cho mọi người biết mình có đào tạo ngành đó thôi. Một người tốt nghiệp ngành rộng vẫn có thể học ngành hẹp đó. Đây là văn bằng quốc gia nên người học được hưởng tất cả quyền lợi theo quy định như có thể học dự tuyển ở ngành cao hơn hoặc học tiếp văn bằng hai”.
2. Trang web bee.net.vn có bài Dự thảo Luật Thủ đô vẫn vi hiến?. Bài báo phản ánh: "Nếu đặt vấn đề dự thảo có vượt ra ngoài những bộ luật hiện hành hay không thì phải nói là có" - TS. Dương Thị Thanh Mai, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp bày tỏ quan đểm về dự thảo này. Dự thảo Luật Thủ đô đang được Chính phủ thảo luận trong phiên họp thường kỳ tháng 3/2010, sau đó sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 4/2010. Bee xin giới thiệu loạt bài về những điểm "gợn" cần bàn thảo kĩ để tránh vi hiến và thực sự thiết thực.
Thưa bà, sau nhiều lần chỉnh sửa, dự thảo luật lần này còn có nội dung nào mâu thuẫn với Hiến pháp không?
Trước tiên phải khẳng định không thể xây dựng bộ luật trái Hiến pháp được. Vì vậy sau khi thảo luận, ban soạn thảo đã bỏ các quy định cứng về kiểm soát nhập cư, quy định điều kiện về giấy phép lao động đối với lao động ngoại tỉnh… như đã có ở dự thảo lần trước. Tuy nhiên, nếu đặt vấn đề dự thảo có vượt ra ngoài những bộ luật hiện hành hay không thì phải nói là có, vì nếu không thì không thể nói đến việc xây dựng cơ chế đặc thù được. 
Nội dung “vượt ra ngoài” đó, theo bà phải xây dựng theo hướng như thế nào để các cơ quan chức năng không lúng túng nếu áp dụng? 
Khi đã khác với luật pháp hiện hành thì trong dự thảo phải quy định một điều là: Nếu Luật Thủ đô được ban hành mà có những quy định khác với những luật ban hành trước đó, thì sẽ áp dụng theo Luật Thủ đô. Nếu những luật ban hành sau Luật này mà tạo ra những cơ chế thuận lợi hơn, phân cấp mạnh hơn cho các tỉnh, thành phố, thì Thủ đô cũng được hưởng cơ chế đó. Tất nhiên, nếu những luật ban hành sau mà chặt chẽ hơn thì vẫn áp dụng Luật Thủ đô.
Những quy định đặc thù cho Thủ đô ở đây cụ thể là gì, thưa bà?
Hà Nội sẽ được ưu tiên ở một số mặt như bố trí ngân sách, phát triển khoa học công nghệ cao, hoạt động văn hóa… Ví dụ trong lĩnh vực văn hóa, đối với những công trình văn hóa cấp quốc gia, theo quy định hiện hành phải do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý trực tiếp và quyết định sử dụng những công trình ấy như thế nào, nhưng riêng Thủ đô sẽ được chủ trì và phối hợp với Bộ này để xây dựng quy chế sử dụng các công trình văn hóa cấp quốc gia ở trên địa bàn thành phố. Ví dụ Nhà hát lớn ở Hà Nội, từ trước đến nay Hà Nội muốn tổ chức một sự kiện gì tại đây thì phải xin phép Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nhưng nếu theo quy chế mới thì Hà Nội sẽ được quyền chủ động sử dụng. Trong lĩnh vực tài chính, dự thảo quy định Thủ đô được phép thu một số loại phí ở mức cao hơn so với quy định hiện hành, như thu phụ phí đối với dịch vụ chất lượng cao; hoặc có quyền quyết định chế độ chi sau khi đã cân đối ngân sách.
Về mảng xây dựng có thể giao cho Thủ đô có quyền chỉ định thầu đối với những đồ án quy hoạch để phục vụ cho những cơ chế đặc biệt của thủ đô, hoặc có thể điều chỉnh cục bộ đối với quy hoạch chung do Chính phủ và Thủ tướng quy định. Riêng lĩnh vực giao thông vận tải, Trung ương sau khi xây dựng xong có thể bàn giao cho Thủ đô quản lý các phân khúc quốc lộ, và Thủ đô phải chịu trách nhiệm dự toán ngân sách duy tu bảo dưỡng đoạn đường đó. Chuyện này đối với các tỉnh thì không có.
Dự thảo này trao cho Thủ đô rất nhiều đặc quyền, vậy cơ chế kiểm soát được đặt ra thế nào, thưa bà?
Cơ chế giám sát phải đảm bảo rằng, khi đã giao quyền thì đi đôi với trách nhiệm cụ thể của những cơ quan, cá nhân thực thi. Trong dự thảo đã cố gắng lượng hóa những quy định đó để làm sao phải được khống chế bằng luật. Ví dụ, chúng ta không thể quy định chung chung là chính quyền Thủ đô được thu một số loại phí cao hơn, mà phải xác định cụ thể những loại phí ấy là gì, và tại sao lại được thu cao hơn các địa phương khác. Ví dụ việc thu phí xây dựng, họ được thu cao hơn để giảm bớt khả năng của Thủ đô.
Thứ  hai là lượng hóa mức thu phí không được quá hai lần so với quy định hiện hành. Mặt khác dự luật cũng ràng buộc luôn là những loại phí đó phải sử dụng phù hợp với quy định hiện hành, chứ không phải cứ thu phí cao hơn thì được sử dụng tùy ý.
Về trách nhiệm của cơ quan thực thi, thưa bà, dự luật sẽ đặt ra những yêu cầu mới nào?
Cơ chế kiểm tra, giám sát phải kiểm soát được toàn bộ hệ thống từ trên xuống dưới, giám sát ngang cấp giữa HĐND với UBND, giữa Mặt trận tổ quốc (MTTQ) với chính quyền, và quan trọng là sự giám sát của nhân dân đối với chính quyền. Trong dự thảo cũng xác định rõ và có hẳn một điều khoản quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của HĐND, UBND trong việc thực hiện và chịu trách nhiệm như thế nào. Trong những dự thảo trước mới chỉ thấy trách nhiệm của Chính phủ, của các cơ quan bộ mà chưa thấy trách nhiệm chính của HĐND và UBND. Thứ  ba, trước đây chỉ có quy định chung là Trung ương MTTQ Việt Nam phối hợp với các tổ chức chính trị huy động tiềm lực của người dân trong nước và nước ngoài có trách nhiệm với Thủ đô, nhưng trong dự thảo lần này đã có quy định về trách nhiệm của MTTQ TP Hà Nội cùng với các tổ chức khác trong việc huy động người dân Thủ đô tham gia vào việc hoạch định chính sách, giám sát và phản biện xã hội với các hoạt động của chính quyền Thủ đô…Hiện chúng ta cũng chưa có cơ chế giám sát và phản biện xã hội, thì nay trong dự thảo luật cũng đã quy định cụ thể hơn.
Một vấn đề rất được dư luận chú ý là khi xây dựng Luật Thủ đô thì mô hình chính quyền Hà Nội sẽ như thế nào? Hiện có nhiều ý kiến cho rằng nếu xây dựng một mô hình chính quyền đặc thù sẽ là vi hiến, bà nghĩ sao về điều này?
Hiến pháp quy định các cấp hành chính và ở cùng cấp thì chính quyền được tổ chức như nhau, có quyền hạn và trách nhiệm như nhau. Nếu quy định riêng biệt cho Thủ đô thì không những vướng một số luật hiện hành mà còn vướng cả Hiến pháp. Việc này Ban soạn thảo cũng đã bàn đến và thấy rằng hiện nay Thủ đô cũng như các địa phương khác đang thực hiện thí điểm bỏ HĐND ở cấp quận, huyện, phường theo Nghị quyết của Quốc hội. Do đó trong Luật Thủ đô sẽ chưa quy định mô hình chính quyền, mà chờ đến khi mô hình đó được tổng kết và sửa đổi trong Hiến pháp thì lúc ấy mới bàn đến việc này.
3. Báo điện tử Dân trí có bài Quảng trị: Luật sư bào chữa bị hành hung sau phiên tòa. Bài báo phản ánh: Sáng 1/4, Luật sư Phạm Văn Khánh thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương cho biết ông vừa trình báo với Công an phường 1, TP Đông Hà về việc ông bị hành hung ngay sau khi bào chữa cho thân chủ ở phiên tòa sơ thẩm do TAND tỉnh Quảng Trị xét xử.
Sau khi bào chữa cho thân chủ của mình là chị Dương Thị Vững (ở 134 Nguyễn Trãi, TP Đông Hà, Quảng Trị) là bị đơn trong vụ ly hôn, lúc 12h30 trưa 31/3, luật sư Khánh và một người em ghé vào quán cà phê Sao Xanh trên đường Lê Quý Đôn (Đông Hà). Đang uống nước bất ngờ ông Khánh bị một thanh niên từ ngoài xông thẳng vào quán, dùng mũ bảo hiểm đánh tới tấp vào mặt và đầu ông.
Trước khi ra về, đối tượng này còn cầm ly thủy tinh ném vào mặt ông Khánh và buông ra một câu: “Đánh cho mày khỏi vào đây bào chữa”. Hiện vụ việc đang được Công an TP Đông Hà điều tra làm rõ.
4. Báo Nhân dân có bài Văn phòng luật sư sẽ “khép cửa” với luật sư tập sự?. Bài báo phản ánh: Tại buổi toạ đàm sáng 31-3 vừa qua về các nội dung của dự thảo Thông tư hướng dẫn về tập sự hành nghề luật sư, các đại diện của đoàn luật sư nhiều tỉnh, thành đã bàn luận sôi nổi về vấn đề có hay không việc Văn phòng luật sư (VPLS) phải trả chi trả thù lao cho luật sư tập sự (LSTS). Nhiều ý kiến cho rằng, nếu có quy định cứng này thì nhiều VPLS khó mà dang tay ra chào đón người đến xin tập sự.
Dự thảo Thông tư không quy định về việc trả lương hay thù lao cho người tập sự vì theo ban soạn thảo, trong trường hợp hai bên có thoả thuận về việc trả lương hoặc thù lao thì quyền và nghĩa vụ của hai bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động hoặc pháp luật dân sự. Tuy nhiên, một số luật sư (LS) tham gia buổi tọa đàm cho rằng, LSTS cũng cần được hưởng một khoản phí xứng đáng và thực tế nhiều VPLS đã làm việc này. Ông Nguyễn Văn Thảo- Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng, cần có quy định về mức lương đối với LSTS và đó là số tiền mà họ cần được hưởng trong qúa trình tập sự tại văn phòng.
Tại VPLS Hằng Nga, LSTS nhiều khi “được cho ra biển nhưng lại không được phép bơi”. Do đó LSTS cần phải được “tập bơi” và việc  nhận thủ lao là đương nhiên theo từng vụ việc cụ thể. Theo LS Hằng Nga, quy định của pháp luật dường như ngày càng “bó hẹp” hơn đối với LSTS.  Pháp lệnh Luật sư năm 1997 cho phép LSTS có thể tham gia tranh trụng tại tất cả các cấp. Pháp lệnh năm 2001, LSTS chỉ được phép tranh tụng tại các toà án cấp quận, huyện. Và đến dự thảo Thông tư ban hành Quy chế đối với LSTS thì đối tượng này chẳng được làm gì cả ngoài “giúp việc” theo chỉ dẫn của LS hướng dẫn.
Tuy nhiên, LS Nguyễn Huy Thiệp- Đoàn LS Hà Nội nhấn mạnh, nếu có quy định VPLS phải nhận và trả thủ lao cho LSTS thì sẽ chẳng có văn phòng nào “mở cửa” cho người đến xin tập sự. Trên thực tế, có nhiều VPLS hoạt động cầm chừng, sống vất vả với nghề nên việc đưa ra những quy định kiểu áp đặt, ràng buộc nghĩa vụ “cứng” là không khả thi. “LSTS nên lai lưng ra mà làm chứ cứ ngồi chờ phân công thì sẽ chẳng có việc gì mà làm”, ông Thiệp nói. Luật sư Nguyễn Hiếu cũng cho rằng, liệu các VPLS có chịu tiếp nhận LSTS hay không nếu họ coi đó là gánh nặng.
LS Nguyễn Phúc Tiến- Phó Chủ nhiệm Đoàn LS Phú Thọ, thực tế, các LSTS tại đây thường được chi trả 20% trên tống số phí mỗi vụ nhưng không có nghĩa là nên quy định chung cho tất cả. Nếu LSTS mà không làm việc đòi trả thù lao thì lại không hợp lý, do đó cần dựa trên công việc thực tế và sự thoả thuận để đưa ra khoản phí cho LSTS. Phan Thanh Long - chủ nhiệm Đoàn LS Thái Nguyên khẳng đinh, điều 55 của Luật Luật sư chỉ quy định việc trả phí đối với Luật sư chứ không có quy định về việc trả phí cho LSTS do đó chỉ nên tính chuyện thoả thuận mà thôi.
Khoản 1 Điều 5 Dự thảo Thông tư lần này cũng quy định chung chung rằng, khi người tập sự được nhận vào một tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức đó có xác nhận bằng văn bản thức ghi nhận thoả thuận giữa hai bên. Như vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về luật sư và Thông tư này. Song theo Liên đoàn luật sư Việt Nam, dự thảo Thông tư cần quy định người tập sự hành nghề luật sư và tổ chức hành nghề luật sư nhận tập sự phải thoả thuận về việc ký kết hợp đồng lao động để đảm bảo quyền lợi hai bên.
LSHà Thị Thanh – Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Hưng Yên cho hay, “trên thực tế, tại văn phòng của chúng tôi đã ký hợp đồng lao động với những người tập sự và cho họ được tham gia vào nhiều vụ việc thực tế. Do đó, sau khi hết thời hạn tập sự, hầu như họ đều hành nghề khá vững”. Phản bác lại quan điểm này, ông Phan Thanh Long khẳng định, nếu dùng hợp đồng lao động thì cũng không đúng vì bản chất của hợp đồng này là quan hệ lao động giữa chủ sử dụng lao động và người lao động nhưng ở đây là đi tập sự hành nghề chứ không phải xin lao động. Mà đã ký hợp đồng lao đồng còn phải thực hiện nghĩa vụ chi trả ốm đau… do đó  đối với các VPLS điều này là khó khả thi.
Như vậy, quy định về mức thù lao cũng như ký kết văn bản thế nào giữa VPLS và người tập sự là hoàn toàn là câu chuyện “thoả thuận”. Việc chi trả thù lao chính là sự thừa nhận năng lực cũng như đóng góp của LSTS đối với VPLS. Tuy nhiên, thực tế điều đầu tiên mà mà các luật sư tập sự mong muốn khi “gõ cửa” các VPLS chắc chắn không phải là có được chi trả thù lao hay không mà là được “va đập” thực tế để thu về kỹ năng hành nghề. Vì thế, dự thảo thông tư cần có những quy định mở hơn nữa đối với LSTS để họ nhanh  “cá chép hoá rồng”.
5. Báo Kinh tế và đô thị có bài Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp: Chưa kín kẽ. Bài báo phản ánh: “Có nhiều quy định mới mang tính đột phá, tháo gỡ được một số “vòng kim cô” trói buộc hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do nội dung bao trùm cả Thông tư lẫn Luật Doanh nghiệp nên Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp đã lộ diện nhiều bất cập”. Đó là nhận xét của đa số các đại diện doanh nghiệp và công ty luật tại buổi hội thảo góp ý cho Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp diễn ra sáng 1/4 tại Hà Nội.
Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp lần này được nhiều người đặt kỳ vọng là sẽ khắc phục được những khiếm khuyết của Nghị định 139 ban hành cách đây đã 4 năm. Ông Phan Đức Hiếu, Phó trưởng Ban môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, thuộc Viện Nghiên cứu Quản lý TƯ (CIEM), thành viên ban soạn thảo còn lạc quan rằng: “Nghị định mới sẽ được triển khai theo hướng đơn giản hơn, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giảm rủi ro cho cơ quan nhà nước”. Và sự thực là so với Nghị định 139, Nghị định thay thế có nhiều sửa đổi, bổ sung tiến bộ như quy định về cách xác định vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên, công ty cổ phần, số cổ phần được quyền phát hành của công ty cổ phần, xác định quyền biểu quyết trong công ty TNHH và tỷ lệ phân chia lợi tức dựa trên tỷ lệ vốn thực góp… Theo nhận xét của ông Đỗ Trọng Hải, Công ty Luật Bizlink, những điểm mới này đã góp phần thống nhất cách hiểu và thực hiện Luật Doanh nghiệp cho cả doanh nghiệp và cơ quan có thẩm quyền, soi rõ các vấn đề quản trị nội bộ, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chính sự mạnh dạn vượt bậc của ban soạn thảo đã khiến nội dung dự thảo bao trùm cả Thông tư lẫn Luật Doanh nghiệp, dẫn đến nhiều điểm bất cập. Chẳng hạn, dự thảo quy định: Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Quy định này mâu thuẫn với việc Thủ tướng đã thành lập các Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong mấy năm qua. Vậy sẽ công nhận hay phủ nhận việc tồn tại 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau về tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay là: Một tập đoàn có tư cách pháp nhân nằm trong một tập đoàn không có tư cách pháp nhân? Ví dụ Tập đoàn Bảo Việt là công ty mẹ có tư cách pháp nhân lại nằm trong Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Việt Nam không có tư cách pháp nhân; hay Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là công ty mẹ có tư cách pháp nhân nằm trong Tập đoàn Công nghiệp Hóa chất Việt Nam không có tư cách pháp nhân…Trên đây chỉ là một trong số nhiều nghịch lý mà Ban soạn thảo đã bỏ sót được các doanh nghiệp chỉ rõ và đề nghị được điều chỉnh kịp thời.
Sửa Nghị định thôi thì chưa đủ - đó là góp ý của bà Nguyễn Thị Mai, Công ty Luật Á Châu. Theo bà Mai, Luật Doanh nghiệp ban hành từ năm 2005 đến nay đã tròn “5 tuổi” và có biểu hiện một số điểm bất hợp lý. Vậy chỉ sửa đổi, bổ sung Nghị định 139 thì chưa đủ, nên chăng phải sửa đổi cả Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư để tránh tình trạng chắp vá. Mặt khác, trong Luật Doanh nghiệp còn nhiều nội dung giao Chính phủ quy định và thường cuối một số điều lại có thêm một cụm từ “theo quy định khác”, văn bản “đẻ” thêm văn bản để hướng dẫn nên dẫn tới tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn nhau rất khó thực hiện.
Thực tế cho thấy một doanh nghiệp, công ty phải chịu sự điều chỉnh của quá nhiều văn bản pháp luật giống như “một cổ nhiều tròng” vậy. Đại diện một công ty chứng khoán cho biết, hiện doanh nghiệp này đang chịu sự điều chỉnh của cả pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về chứng khoán. Các công ty luật cũng cùng một lúc chịu sự điều chỉnh của Luật Luật sư và Luật Doanh nghiệp. “Việc quy định một vấn đề trong quá nhiều văn bản dẫn đến tình trạng thi hành rất khó, doanh nghiệp phải “ngó trước nhìn sau” rất kỹ nếu không muốn bị “tuýt còi” phạm pháp” - bà Mai bức xúc.
Chẳng hạn, việc quản lý và sử dụng con dấu của cơ quan, tổ chức, doanh gnhiệp đã được quy định chi tiết tại Nghị định 58/2001 của Chính phủ, sau đó được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 31/2009 đang có hiệu lực thi hành. Thế nhưng, Dự thảo Nghị định lần này vẫn tiếp tục nhắc lại vấn đề này, tạo nên sự chồng chéo, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật, đặc biệt gây khó khăn cho các đối tượng áp dụng. Do đó, đại diện các doanh nghiệp kiến nghị cơ quan chủ trì xây dựng dự thảo là Bộ Kế hoạch & Đầu tư sớm chỉnh sửa và công bố Nghị định mới thay thế Nghị định 139.


File đính kèm