Điểm tin báo chí sáng ngày 23 tháng 8 năm 2013

23/08/2013
Trong ngày 22/8 và đầu giờ sáng ngày 23/8/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Thiệt hại 1,3 tỉ đồng vì thi hành án. Bài báo phản ánh: Mặc dù đã ký văn bản giải quyết việc thi hành án nêu rõ để cho đương sự tự bán tài sản để trả nợ, thế nhưng Thi hành án TP Cao Lãnh (Đồng Tháp) lại tự ý làm thủ tục thanh toán nợ với ngân hàng để bán tài sản thế chấp khiến gia đình bà Nguyễn Thị Chen, ngụ xã Tịnh Thới, TP Cao Lãnh, thiệt hại hơn 1,3 tỉ đồng.

Bà Chen kể do nuôi cá tra thua lỗ liên tục nhiều năm, tới năm 2010, khi không còn khả năng trả nợ, gia đình bà bị các chủ nợ kiện ra tòa. Ngày 24-5-2010, Tòa án nhân dân TP Cao Lãnh ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo đó, bà Chen đã đồng ý bán hết tài sản của mình gồm căn nhà ở khu 500 căn phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh và phần đất có diện tích hơn 15.000m2 (ước khoảng 3,1 tỉ đồng) ở xã Tịnh Thới để trả nợ.

Ngày 6-12-2010, chấp hành viên Phạm Thanh Tùng, Chi cục Thi hành án dân sự TP Cao Lãnh, ký văn bản giải quyết việc thi hành án trong đó nêu rõ các chủ nợ của bà Chen đồng ý để bà bán tài sản và ưu tiên trả nợ trước cho Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương, chi nhánh Đồng Tháp (Ngân hàng Công thương). Tổng số tiền nợ lẫn lãi ở ngân hàng này là 1,7 tỉ đồng, còn lại bao nhiêu sẽ chia đều cho các chủ nợ còn lại. Thời gian bán tài sản trả nợ chậm nhất là hết tháng 2-2011.

Tuy nhiên, ngày 21-12-2010, đích thân ông Võ Thanh Vân, chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP Cao Lãnh, đã cùng với bà Võ Thị Tuyết Nga vào Ngân hàng Công thương trả phần nợ của bà Chen và cầm sổ đỏ về làm thủ tục sang tên cho bà Nga.

Khi làm thủ tục sang tên, bà Chen mới biết sổ đỏ của mình đã bị ông Vân và bà Nga tự ý lấy sau khi trả nợ ở ngân hàng. Không đồng tình, bà Chen đã khiếu nại với Ngân hàng Công thương thì được nơi này cho biết ngân hàng đã nhận đủ số tiền nợ gốc lẫn lãi và đã trả lại sổ đỏ theo yêu cầu của Thi hành án TP Cao Lãnh, nếu bà Chen có khiếu nại gì thì liên hệ với Thi hành án TP Cao Lãnh.

Trả lời Tuổi Trẻ, ông Võ Ngọc Diệp, giám đốc Ngân hàng Công thương, cho biết về nguyên tắc chỉ có người thế chấp tài sản mới được vào ngân hàng trả nợ để lấy tài sản thế chấp (ở đây là sổ đỏ). Tuy nhiên, do đây là trường hợp đặc biệt, tức cơ quan thi hành án yêu cầu nên ngân hàng đã giải quyết cho lấy sổ đỏ mà không cần có ý kiến của bà Chen - người chủ sở hữu. Còn ông Võ Thanh Vân thì cho rằng vụ việc đã lâu, bản thân ông đã chuyển công tác về Cục Thi hành án tỉnh, hồ sơ đã bàn giao nên ông không thể trả lời đúng sai được.

Trong khi đó, ông Nguyễn Minh Thiện, chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP Cao Lãnh, cho rằng ông vừa về tiếp nhận chức vụ nên không nắm rõ. Tuy nhiên, theo ông Thiện, vụ việc này có lùm xùm khi ông Vân vào Ngân hàng Công thương lấy sổ đỏ thôi, còn sau đó trình tự thủ tục đã thực hiện đúng theo quy định (?!).

Do không đồng tình với cách làm này nên bà Chen đã không đồng ý làm thủ tục sang tên cho bà Nga mà tiếp tục đi khiếu nại. Khi không sang tên được cho bà Nga, ngày 2-7-2012, Thi hành án TP Cao Lãnh quay sang bán đấu giá phần đất của bà Chen để thi hành án và bà Nguyễn Thị Duy Thanh, con ruột của bà Nga, đã trúng đấu giá với giá 2,5 tỉ đồng.

Điều đáng nói là trong bảng kê phân phối tài sản để thi hành án, Thi hành án TP Cao Lãnh đã tính luôn tiền lãi mà bà Chen đã vay của Ngân hàng Công thương từ ngày 21-12-2010 (ngày thi hành án tự ý vào lấy sổ đỏ) đến ngày bán đấu giá thành. Bà Chen phải trả tổng cộng số tiền lên đến 2,4 tỉ đồng chứ không phải chỉ 1,7 tỉ đồng mà Ngân hàng Công thương đã thực thu. Cộng với các khoản khác như chi phí thẩm định, chi phí cưỡng chế, thuế thu nhập cá nhân... thì số tiền còn lại của bà Chen là 0 đồng?!

Như vậy, nếu tính từ lúc biên bản của các đương sự đồng ý để cho bà Chen tự bán tài sản để trả nợ vào ngày 6-12-2010 đến ngày bán đấu giá tài sản thành, bà Chen đã bị mất khoảng 500 triệu đồng.

Mười ngày sau khi nhận thông báo tài sản của mình đã được bán đấu giá thành, bà Chen choáng váng khi nhận được thông báo của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đồng Tháp cho biết theo Hội đồng đền bù giải tỏa dự án cầu Cao Lãnh, một phần diện tích đất của bà Chen sẽ bị giải tỏa để thực hiện dự án cầu Cao Lãnh, số tiền đền bù là 3,1 tỉ đồng.

Ngày 24-9-2012, Thi hành án TP Cao Lãnh ra quyết định cưỡng chế yêu cầu bà Chen giao tài sản cho bà Thanh.

Trong khi đó, ngày 10-2-2012 UBND TP Cao Lãnh ra thông báo về chủ trương thu hồi đất để thực hiện dự án cầu Cao Lãnh, một phần diện tích đất của bà Chen bị giải tỏa. Thông báo này nêu rõ nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, sang nhượng... Nhưng ngày 24-1-2013, UBND TP Cao Lãnh vẫn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Duy Thanh thay cho chủ sở hữu cũ là bà Chen.

Mới đây, Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Đồng Tháp đã hoàn tất thủ tục để chuyển số tiền đền bù từ bà Chen sang bà Thanh. Do là hộ mới phát sinh nên bà Thanh không được nhận các chi phí hỗ trợ như di dời nhà cửa, hỗ trợ thuê nhà, trợ cấp gạo và nền tái định cư... Riêng hộ bà Chen coi như mất trắng.

Nếu tính chênh lệch giữa khoản tiền được bồi thường so với tiền bán đấu giá, bà Chen đã bị mất thêm không dưới 800 triệu đồng. Đó là chưa kể phần diện tích còn lại sau khi thực hiện dự án cầu Cao Lãnh hoàn thành, giá trị sẽ nhân lên rất cao. Như vậy, không tính giá trị phần đất còn lại sau khi giải tỏa, bà Chen đã bị thiệt hại hơn 1,3 tỉ đồng.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Yêu cầu ghi hình CSGT phải xin phép là trái luật. Bài báo phản ánh: Đó là kết luận bước đầu của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đối với Công văn 1042/C67-P3 của Cục CSGT đường bộ - đường sắt (Bộ Công an).

Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) phân tích: Về cấu trúc văn bản, các hành vi “có lời nói đe dọa, lăng mạ”, “chống đối CSGT” và “quay phim, chụp ảnh hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm khi chưa được phép đồng ý của CSGT đang làm nhiệm vụ” có bản chất hoàn toàn khác nhau. Việc C67 lồng ghép, kết nối với nhau và yêu cầu CSGT các địa phương “cảnh giác, kiên quyết đấu tranh” là thiếu thận trọng, không phù hợp.

Nội dung công văn còn dẫn tới cách hiểu quay phim, chụp ảnh hoạt động của CSGT phải “được phép đồng ý”. Như vậy là không phù hợp với các quy định hiện hành, vì việc cấm này chỉ áp dụng với khu vực an ninh, quốc phòng có quy định cấm người dân quay phim, chụp ảnh hoặc với vấn đề bí mật nhà nước. Đến nay, không có quy định nào cấm quay phim, chụp ảnh với hoạt động của CSGT. Hơn nữa, tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm là hoạt động công vụ của CSGT nhân danh Nhà nước tại nơi công cộng, hoàn toàn không thuộc phạm trù bí mật đời tư theo Bộ luật Dân sự. Do vậy, đỏi hỏi quay phim, chụp ảnh phải “được phép đồng ý của CSGT” là không có cơ sở pháp lý.

Theo Cục kiểm tra văn bản, CSGT cũng không có quyền truy hỏi người đang quay phim chụp ảnh cũng như kiểm tra giấy tờ của họ nhằm xác định họ có phải là nhà báo hay giả danh nhà báo.

Đối với báo chí, luật hiện hành quy định nhà báo có quyền “khai thác và được cung cấp thông tin trong hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật”, được “phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm”. Nhà báo tác nghiệp đúng luật thì không ai có quyền ngăn cản, truy xét.

Mặt khác, cũng theo Cục kiểm tra văn bản nhiệm vụ chính của CSGT là tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt chứ không phải lĩnh vực báo chí. Những việc như vậy hoàn toàn không thuộc thẩm quyền của C67.

Cũng theo Cục Kiểm tra văn bản, nội dung “nếu đúng là nhà báo chỉ tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản, nếu giả danh nhà báo thì tạm giữ, lập hồ sơ chuyển cơ quan chức năng...” trong Công văn 1042 là không thực tế, không phù hợp.

Chiếu theo Nghị định 40/2010 của Chính phủ (về kiểm tra và xử lý VBQPPL), Cục trưởng Cục Kiểm tra VBQPPL Lê Hồng Sơn cho rằng: Trách nhiệm xử lý Công văn 1042 trước hết thuộc lãnh đạo Bộ Công an, cùng C67 - nơi ban hành văn bản và Vụ Pháp chế (V19, Bộ Công an). Trường hợp các đầu mối này không giải quyết thì Bộ Tư pháp mới kiểm tra, xử lý theo quy định.

Một cán bộ V19 nói thêm: Công văn 1042 được C67 ban hành từ tháng 4-2013, thuộc loại văn bản hành chính - nghiệp vụ. “Bộ Công an có rất nhiều tổng cục, cục, cơ quan nghiệp vụ. Mỗi ngày các đơn vị này ban hành cả trăm loại văn bản như vậy. Theo phân công, việc thẩm định trước khi ban hành và việc hậu kiểm các văn bản đó thuộc trách nhiệm của bộ phận văn phòng hoặc tham mưu. Với Công văn 1042, tôi nghĩ lãnh đạo C67 và cấp trên là Tổng cục VII - Cảnh sát Quản lý hành chính về TTXH phải kiểm tra, xử lý”.

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Cơ sở nào xác định tính hợp lý của quyết định hành chính?. Bài báo phản ánh: Xuất phát từ thực tiễn còn nhiều bất cập trong ban hành quyết định hành chính, Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính đã được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ XIII. Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát tính hợp lý của các quyết định hành chính này như thế nào vẫn đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.

Có thể nêu một ví dụ điển hình về việc chưa đảm bảo được tính hợp lý của quyết định hành chính là quyết định cho phép xây dựng khu du lịch Vọng Cảnh của UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế. Từ ngày 11/10/1999, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã ra Quyết định số 2327/QĐ-UBND quy hoạch Quần thể lăng tẩm, Điện, Đàn thời vua chúa, di tích lịch sử cách mạng và danh thắng nổi tiếng ở phía Tây - Nam TP.Huế (trong đó có đồi Vọng Cảnh) nằm trong khu đất có diện tích 2.400 ha nhằm bảo tồn, tôn tạo giá trị văn hóa hiện có của nó.

Đáng tiếc là ngày 8/11/2004, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế lại ra Quyết định số 18/GP-TTH cho phép Công ty liên doanh Vọng Cảnh xây dựng Dự án khu du lịch ở đồi Vọng Cảnh nằm trong khu vực kể trên. Điều này vừa đi ngược lại Quyết định số 2327/QĐ-UBND do chính cơ quan này ban hành! Đặc biệt, UBND tỉnh cũng chưa tiến hành làm thủ tục trình cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa đã cho phép Công ty liên doanh Vọng Cảnh xây dựng khu du lịch ở đồi Vọng Cảnh. 

Trong bản vẽ thiết kế, Dự án có xây dựng khách sạn 5 tầng, ở tầng trên cùng cắm cọc cao 12m, tương đương với 3 tầng nhà nữa, cùng một số công trình phụ trợ khác có nguy cơ gây ảnh hưởng lớn đến khu di tích. Các chuyên gia, nhà khoa học phân tích, Dự án trái với Quyết định phê duyệt quy hoạch bảo tồn di sản văn hóa và môi trường cảnh quan của chính UBND tỉnh. Người dân thì phản đối bởi nếu Dự án thành hiện thực sẽ phá vỡ cảnh quan thiên nhiên của tỉnh, che khuất tầm nhìn khi khách sạn mọc lên. Vì vậy, mặc dù Dự án với tổng vốn đầu tư 4,9 triệu USD đã được động thổ ngày 29/1/2005 song không trở thành hiện thực.

Quyết định hành chính được ban hành sẽ tác động đến một hoặc một số nhóm đối tượng nhất định. Nhằm thực hiện nguyên tắc mọi quyết định hành chính đều có thể bị kiểm soát triệt để, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong Nhà nước pháp quyền, Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính đưa ra định hướng là tạo cơ chế kiểm soát tính hợp lý, khả thi của các quyết định hành chính.

Theo đó, để bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân có liên quan đến quyết định hành chính; hạn chế các quyết định hành chính được ban hành tùy tiện, theo ý chí chủ quan của người ban hành, thì các cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính cần coi trọng quyền của người dân được trình bày những ý kiến, nguyện vọng của mình trước khi cơ quan có thẩm quyền ban hành một quyết định hành chính, nhất là đối với những quyết định có tác động lớn đến cuộc sống sinh hoạt bình thường của người dân. Chẳng hạn, trong các quy hoạch đất đai, giao thông, đô thị…, người dân cần được tham khảo ý kiến trước khi có quyết định việc xây dựng, cải tạo các công trình, dự án có liên quan đến lợi ích của họ…

Đối với một số quyết định hành chính quan trọng liên quan đến nhiều người như các dự án phát triển kinh tế - xã hội…, việc lấy ý kiến các đối tượng có liên quan, điều tra xã hội học hoặc đánh giá tác động kinh tế - xã hội trong quá trình ban hành quyết định hành chính sẽ góp phần nâng cao tính khả thi của các quyết định hành chính khi được ban hành. Như vậy, “vừa nâng cao chất lượng của quyết định hành chính vừa bảo đảm tính khả thi, hợp lý của các quyết định hành chính khi được ban hành” – Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự Hành chính (Bộ Tư pháp) Nguyễn Thị Kim Thoa cho biết.

Tuy nhiên, tại cuộc họp về định hướng cơ bản xây dựng Luật này, theo bà Trần Thị Hiền (Trường Đại học Luật Hà Nội) thì chưa thấy dự luật đề cập đến cơ chế tạo ra tính hợp lý của quyết định hành chính, việc đánh giá tính hợp lý của quyết định hành chính dựa trên cơ sở tiêu chí nào cũng chưa rõ. Bà Hiền cho rằng, việc kiểm soát tính hợp lý của quyết định hành chính chỉ có thể thông qua kênh dư luận xã hội, kênh công chúng. Sau khi nghe báo cáo định hướng và một số ý kiến góp ý, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu thêm về định hướng này (và cả các định hướng khác), đồng thời nhấn mạnh “quyết định hành chính quan trọng nhất là phải hợp pháp”.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Bến Tre: Xử lý nghiêm sai phạm cho tổ chức nước ngoài thuê đất. Bài báo phản ánh: Đoàn kiểm tra liên ngành tỉnh Bến Tre cho biết, trên địa bàn tỉnh Bến Tre hiện có 36 tổ chức nước ngoài thuê đất. Bên cạnh các tổ chức theo đất đúng quy định cũng còn một số tổ chức nước ngoài thuê đất không đúng quy định pháp luật.

Cụ thể, có 19 tổ chức thuê đất đúng quy định pháp luật (4 tổ chức được UBND tỉnh cho thuê, 15 tổ chức thuê đất trong các khu công nghiệp, tổng diện tích là 699.604,9 m2). Các tổ chức này đều thực hiện đúng các nghĩa vụ tài chính và sử dụng đúng mục đích theo hợp đồng đã ký kết.

Bên cạnh đó, có 17 tổ chức nước ngoài thuê đất không đúng quy định pháp luật, tổng diện tích là 827.185,7 m2.

Theo lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre, các doanh nghiệp nước ngoài thuê đất không thông qua Sở Tài nguyên – Môi trường mà chỉ tiến hành các thủ tục công chứng, chứng thực tại các UBND xã hoặc phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp Bến Tre. Ngoài sai phạm về thủ tục, trình tự, một số doanh nghiệp còn sử dụng đất không đúng mục đích.

Việc tổng kiểm tra thực trạng người nước ngoài thuê đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre được UBND tỉnh chỉ đạo sau khi Sở Tài nguyên – Môi trường phát hiện một số tổ chức nước ngoài thuê đất không đúng trình tự tại một số xã thuộc các huyện Bình Đại, Mỏ Cày Nam.

Cũng theo lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre, việc giải quyết các hợp đồng này sẽ được triển khai theo hướng xác lập quyền Nhà nước cho thuê đất theo đúng trình tự pháp luật. Người dân đã cho thuê đất có thể giao hẳn quyền sử dụng đất lại cho Nhà nước hoặc giao lại trong thời hạn đúng bằng thời hạn trong hợp đồng cho thuê đã ký với các tổ chức nước ngoài. Sai phạm của các cấp chính quyền liên quan cũng sẽ được xử lý nghiêm minh. 



File đính kèm