Điểm tin báo chí sáng ngày 16 tháng 8 năm 2013

16/08/2013

Trong ngày 15/8 và đầu giờ sáng ngày 16/8/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài: Hạn chế văn bản chất lượng thấp, liên tục sửa đổi. Theo báo, không thể phủ nhận những kết quả tích cực đã đạt được qua nhiều năm thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 (Luật năm 2008) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004 (Luật năm 2004). Tuy nhiên...

Tính ổn định chưa cao

Có thể nói, hệ thống VBQPPL hiện nay đã điều chỉnh tương đối đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, có một thực trạng là các VBQPPL lại hay rơi vào tình trạng phải liên tục sửa đổi, bổ sung chỉ trong vòng vài năm. Chẳng hạn, Bộ luật Lao động được ban hành từ năm 1994 song đến nay đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007 và gần đây nhất là năm 2012; hay Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên được Quốc hội thông qua năm 1988 và sửa đổi, bổ sung năm 1990, năm 1992, năm 2000 thì đến năm 2003 được thay thế bằng một bộ luật mới và hiện nay lại đang được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Còn phần lớn các đạo luật thường ít nhất có một lần sửa đổi, bổ sung như Luật Quản lý thuế, Luật Đấu thầu, Luật Báo chí, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thi đua, khen thưởng, Luật Luật sư…

Đánh giá về thực trạng trên, Bộ Tư pháp cho rằng: Hai Luật Ban hành VBQPPL hiện hành quy định về toàn bộ quy trình xây dựng văn bản, từ đề xuất sáng kiến, soạn thảo, xem xét cho đến ban hành và công bố văn bản. Có điều, cả hai Luật đều chưa tách bạch quy trình hoạch định chính sách với quy trình soạn thảo văn bản. Hơn nữa, hai đạo luật hiện hành chủ yếu quy định về quy trình soạn thảo văn bản, chưa chú trọng đúng mức đến khâu hoạch định, phân tích chính sách của văn bản.

Điều này dẫn đến tình trạng vừa soạn thảo văn bản vừa xây dựng chính sách; việc xem xét, thông qua chính sách chưa được coi là một quy trình riêng, trong khi quyết định về chính sách là một khâu rất quan trọng, cần được xem xét, quyết định sớm, trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản. Do chính sách không được hoạch định trước nên văn bản chỉnh sửa, trình nhiều lần, gây lãng phí nguồn lực, làm chậm tiến độ. “Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến chất lượng văn bản thấp, phải sửa đổi liên tục sau khi ban hành, làm giảm niềm tin vào tính ổn định của hệ thống pháp luật” – Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật (Bộ Tư pháp) Nguyễn Hồng Tuyến thẳng thắn bày tỏ.

Tách bạch hoạch định chính sách với soạn thảo văn bản

Do vậy, Luật Ban hành VBQPPL hợp nhất tới đây cần phân biệt rõ quy trình xây dựng, phân tích chính sách với quy trình soạn thảo văn bản, trong đó cần chú trọng đầu tư và thực chất hơn đến quy trình phân tích, hoạch định chính sách. Từ đó, có các quy định rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm, sự tham gia của các chuyên gia hoạch định chính sách, chuyên gia pháp lý, sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân vào việc xây dựng chính sách, pháp luật.

Tại Hội thảo “Một số định hướng lớn xây dựng Luật Ban hành VBQPPL” do Bộ Tư pháp tổ chức hôm qua – 15/8 trong khuôn khổ Dự án do Canada tài trợ, liên hệ đến Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Quốc hội) Ngô Trung Thành cũng đồng tình, các chủ thể có quyền trình dự án luật, pháp lệnh thì có trách nhiệm phải soạn thảo, trình dự án, giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội để chỉnh lý, hoàn thiện trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua vì chỉ chủ thể trình dự án mới có thể hiểu được chính sách đề ra trong dự án.

Trong khi theo quy định hiện hành cơ quan trình dự án chỉ có trách nhiệm soạn thảo và trình dự án, sau khi trình dự án sang bên phía Quốc hội, việc giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo văn bản và trình thông qua là do các cơ quan của Quốc hội chủ trì thực hiện. “Đây là vấn đề cần phải được tổng kết để làm rõ, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các nước, thực tiễn thi hành ở nước ta để xác định rõ và rành mạnh trách nhiệm của các chủ thể này” – ông Thành nhấn mạnh.

2. Báo Quân đội nhân dân đưa tin: Ngày 14-8, Tòa án Nhân dân tối cao tổ chức Hội nghị trực tuyến để đóng góp ý kiến đối với dự thảo báo cáo của Ban Cán sự Đảng Tòa án Nhân dân tối cao về nội dung tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao chủ trì hội nghị. Hội nghị đã nghe Tòa án Nhân dân tối cao báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW của ngành Tòa án Nhân dân trong thời gian qua. Các đại biểu đã tiến hành tham luận, đi sâu vào các vấn đề như: Việc đẩy mạnh tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 49; sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự phối hợp của các cơ quan hữu quan với ngành Tòa án Nhân dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nói chung và nhiệm vụ cải cách tư pháp nói riêng; những bất cập của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm hiện nay và hướng hoàn thiện; việc bảo đảm kinh phí phục vụ các hoạt động nghiệp vụ, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và mua sắm trang thiết bị, sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với ngành Tòa án; hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp... Hội nghị đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị và phương hướng đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp của ngành Tòa án Nhân dân trong thời gian tới.

3. Báo Tiền phong có bài Một năm “không phát hiện vụ tham nhũng nào”. Theo báo, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội do ông Nguyễn Đình Quyền, Phó chủ nhiệm làm trưởng đoàn đã có chuyến khảo sát công tác đấu tranh chống tội phạm, phòng chống tham nhũng; điều tra, truy tố, xét xử …và công tác thi hành án tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT). Sau khi nghe các ban, ngành báo cáo, ông Nguyễn Đình Quyền, cho rằng trong một năm BR-VT không phát hiện được trường hợp tham nhũng nào là một hạn chế. Tỷ lệ án phải chỉnh sửa, hủy cao cho thấy năng lực, trách nhiệm, trình độ, chuyên môn của thẩm phán. Phó chủ nhiệm Ủy ban tư pháp Quốc hội cũng lưu ý BR-VT về hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại.

4. Chuyên trang về CNTT của báo điện tử Infonet đưa tin: Kể từ hôm nay (15/8/2013), Sở Tư pháp và Bưu điện TP.Hà Nội phối hợp cung cấp tới người dân, doanh nghiệp dịch vụ chuyển phát kết quả thực hiện 6 loại thủ tục hành chính ngành Tư pháp. Lễ ký kết Biên bản thỏa thuận hợp tác cung cấp dịch vụ chuyển phát kết quả thủ tục hành chính của Sở Tư pháp Hà Nội qua hệ thống Bưu điện vừa được Sở Tư pháp Hà Nội và Bưu điện TP.Hà Nội - đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam (VietnamPost) phối hợp tổ chức vào sáng 15/8/2013.

Cụ thể, theo thỏa thuận mới ký kết, từ giữa tháng 8/2013, Bưu điện TP.Hà Nội sẽ đảm trách việc cung ứng cho các tổ chức, doanh nghiệp và người dân dịch vụ chuyển phát kết quả giải quyết thủ tục hành chính của Sở Tư pháp Hà Nội cho các tổ chức và công dân ở các lĩnh vực: cấp phiếu Lý lịch Tư pháp; cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch; các thủ tục về bổ sung, cải chính, điều chỉnh, thay đổi hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính; cấp giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam và cấp giấy xác nhận là người gốc Việt Nam; các thủ tục về bổ nhiệm, cấp thẻ, cấp lại thẻ, miễn nhiệm công chứng viên; và thủ tục về thành lập văn phòng công chứng, đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, cấp lại đăng ký hoạt động và chấm dứt hoạt động của văn phòng công chứng.

Để sử dụng dịch vụ chuyển phát kết quả giải quyết 6 loại thủ tục hành chính nêu trên do Bưu điện TP.Hà Nội cung cấp, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân sau khi nộp hồ sơ, nếu có nhu cầu nhận kết quả qua Bưu điện, sẽ đăng ký sử dụng dịch vụ tại bàn tiếp nhận của Bưu điện TP.Hà Nội đặt ngay tại bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính của Sở Tư pháp Hà Nội. Đến hạn trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính, Bưu điện TP.Hà Nội sẽ chuyển phát tới tận địa chỉ khách hàng yêu cầu.

Về cước phí sử dụng dịch vụ chuyển phát kết quả thực hiện thủ tục hành chính của Sở Tư pháp Hà Nội, đối với phạm vi nội tỉnh, mức cước chuyển phát bộ hồ sơ đầu tiên đến 1 địa chỉ tại các quận nội thành Hà Nội là 30.000 đồng/bộ hồ sơ và 40.000 đồng/bộ đối với địa chỉ tại các huyện ngoại thành Hà Nội. Còn với phạm vi liên tỉnh, cước chuyển phát bộ hồ sơ đầu tiên đến một địa chỉ là 50.000 đồng/ 1 bộ. Từ bộ hồ sơ thứ hai trở lên có cùng địa chỉ nhận trong 1 lần đăng ký, mức cước người sử dụng dịch vụ phải trả chỉ là 10.000 đồng/1 bộ. Mức cước phí trên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng.

5. Báo Công an Đà Nẵng đưa tin: Chiều 14-8, UBND tỉnh Kon Tum đã tổ chức Lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm 5 lãnh đạo Sở có thời hạn kể từ ngày 15-8-2013. Các lãnh đạo được bổ nhiệm lần này gồm: Sở Tư pháp; Sở LĐ-TB&XH; Sở Ngoại vụ và Sở Thông tin và truyền thông.

Tại buổi lễ, Thay mặt lãnh đạo tỉnh, bà Lê Thị Kim Đơn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum đã trao các quyết định Bổ nhiệm ông Bloong Tiến, Bí thư Huyện ủy Đăk Glei, giữ chức Giám đốc Sở LĐ-TB&XH; ông A Kang, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Sa Thầy giữ chức Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH; ông Nguyễn Văn Bảy, Phó Giám đốc Sở Tư pháp giữ chức Giám đốc Sở Tư pháp; ông Trần Văn Thu, Trưởng phòng Công nghệ - Thông tin (Sở GD-ĐT) giữ chức Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông; bà Trương Thị Linh, Phó Trưởng phòng Nội chính (Văn phòng UBND tỉnh) giữ chức Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ.

6. Báo Tuổi trẻ có bài: Ngậm ngùi nhìn doanh nghiệp ngoại xù nợ. Theo báo, Vi phạm hợp đồng, một doanh nghiệp trong nước đã khởi kiện một doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FDI) và được tòa xử thắng kiện buộc bồi thường hàng chục tỉ đồng. Thế nhưng, do vấn đề ràng buộc về mặt pháp lý với doanh nghiệp FDI chưa chặt chẽ nên doanh nghiệp Việt đành ngậm ngùi nhìn nợ...

Tháng 12-2008, Công ty cổ phần Vinacam (quận 1, TP.HCM) ký hợp đồng mua của Công ty Keytrade AG (có văn phòng tại TP.HCM, trụ sở chính tại Thụy Sĩ) lô hàng 25.000 tấn phân urê (xuất xứ từ Nga hoặc Ukraine) trị giá gần 6 triệu USD. Thực hiện hợp đồng này, Vinacam đã mở tín dụng thư bảo lãnh đúng như cam kết, chỉ chờ Keytrade AG giao hàng sẽ thanh toán tiền. Tuy nhiên, chưa đầy nửa tháng sau, phía Keytrade AG lấy lý do sự kiện Nga ngưng cung cấp khí đốt cho Ukraine, là sự cố bất khả kháng nên công ty không thể giao hàng cho Vinacam.

Sau nhiều lần trao đổi, Keytrade AG lại đưa ra điều kiện là nếu Vinacam chấp nhận tăng giá từ 239 USD/tấn lên 345 USD/tấn, công ty giao hàng được, nhưng thời hạn giao hàng sẽ lùi lại hai tháng so với hợp đồng đã ký. Vì cần hàng, Vinacam chấp nhận lùi ngày giao hàng sau một tháng nhưng không đồng ý tăng giá mua hàng. Không được tăng giá, Keytrade AG gửi fax tuyên bố hủy hợp đồng với Vinacam. Vì bị Keytrade AG không giao hàng đúng hợp đồng, phía Vinacam phải chịu thiệt hại nặng nề khi nhiều hợp đồng đã ký kết với các công ty trong nước bị hủy nên nộp đơn khởi kiện Keytrade AG để đòi bồi thường.

Cả hai cấp tòa sơ thẩm (TAND TP.HCM) và phúc thẩm (TAND tối cao tại TP.HCM) đều xử cho Vinacam thắng kiện, buộc Keytrade AG phải bồi thường thiệt hại vì đã vi phạm hợp đồng cho Vinacam số tiền hơn 43,6 tỉ đồng (là lợi nhuận mà Vinacam lẽ ra được hưởng nếu Keytrade AG thực hiện đúng hợp đồng, giao hàng đúng hẹn cho Vinacam).

Theo ông Vũ Duy Hải - tổng giám đốc Công ty Vinacam, ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành, công ty đã có đơn đề nghị Cục Thi hành án dân sự TP.HCM cho thi hành bản án, Cục Thi hành án cũng đã ra quyết định thi hành án nhưng triệu tập nhiều lần mà đại diện Keytrade AG tại VN không đến làm việc. Quá trình xác minh được biết văn phòng đại diện của công ty tại VN cũng không có tài sản đáng giá để đảm bảo thi hành án. Đồng thời, sau khi bị tòa xử thua kiện thì Keytrade AG cũng tiến hành làm thủ tục đóng cửa văn phòng đại diện tại VN khiến khoản tiền thi hành án của Vinacam rơi vào tình trạng không thể thi hành.

Theo luật sư Võ Xuân Trung, nhiều trường hợp doanh nghiệp VN vi phạm hợp đồng, bị tòa án nước ngoài tuyên buộc bồi thường thì cơ quan chức năng của họ đã dùng nhiều biện pháp phối hợp, hỗ trợ phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản của doanh nghiệp VN ở nước ngoài. Trong khi đó, doanh nghiệp VN bị “xù” nợ, bị vi phạm hợp đồng đã có bản án xét xử nhưng lại không có cơ chế hỗ trợ để buộc các công ty ở nước ngoài phải thi hành án, phải trả nợ cũng là điều thiệt thòi cho các doanh nghiệp.

Trao đổi về vụ án này, chấp hành viên Hà Quốc Dũng, Cục Thi hành án dân sự TP.HCM, cho biết cơ quan thi hành án cũng đã có văn bản đề nghị cơ quan thẩm quyền ngăn chặn không chấp nhận thủ tục chấm dứt hoạt động của văn phòng đại diện Công ty Keytrade AG. Đồng thời, theo đề nghị của phía Vinacam, Cục Thi hành án cũng đã có văn bản cấm xuất cảnh đối với trưởng văn phòng đại diện của Keytrade AG tại VN. Tuy nhiên, dù bị cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn không cho làm thủ tục đóng cửa, văn phòng công ty này tại VN vẫn ngưng hoạt động.

Theo Cục Thi hành án dân sự TP.HCM, do công ty không có tài sản tại VN, trụ sở chính tại Thụy Sĩ mà giữa VN với Thụy Sĩ chưa có hiệp định tương trợ tư pháp nên cơ quan thi hành án cũng không thể nhờ cơ quan có thẩm quyền của Thụy Sĩ cho thi hành bản án của VN. Vì vậy, cơ quan thi hành án đã gửi hồ sơ đề nghị Bộ Tư pháp làm thủ tục ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của Thụy Sĩ.

Theo luật sư Võ Xuân Trung - Đoàn luật sư TP.HCM, do không có hiệp định tương trợ tư pháp nên việc ủy thác tư pháp rất khó buộc Công ty Keytrade AG phải chấp hành nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp VN cũng như khoản án phí cho Nhà nước. Vinacam cũng có phần thiếu sót vì trong quá trình ký kết hợp đồng đã không đề nghị đối tác phải có bảo lãnh ngân hàng, nên nếu đối tác cố tình vi phạm hợp đồng thì việc kiện tụng, đòi bồi thường rất phức tạp.

7. Báo Điện tử Chính phủ có bài: Bảo đảm quyền lợi cho kiều bào sở hữu nhà ở Việt Nam. Theo báo, Nhằm bảo đảm quyền lợi cho kiều bào khi về Việt Nam mua và sở hữu nhà ở, Bộ Xây dựng đã có công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc thực hiện chính sách, pháp luật về nhà ở, đất ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài .

Để triển khai thực hiện đúng quy định của Quốc hội và của Chính phủ về chính sách mua và sở hữu nhà ở đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào, Bộ Xây dựng đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương như: Sở Tư pháp, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, cơ quan Công an hướng dẫn các tổ chức chuyên môn khi làm thủ tục công chứng, chứng thực cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam cần thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Cụ thể, về thủ tục công chứng, chứng thực các giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, theo Bộ Xây dựng, khi thực hiện công chứng hoặc chứng thực các giao dịch về nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam thì không yêu cầu phải có hộ khẩu thường trú và chứng minh thư nhân dân mà chỉ cần có hộ chiếu Việt Nam hoặc hộ chiếu nước ngoài kèm theo Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc Giấy xác nhận gốc Việt Nam và các giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo đúng quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP.

Về xác định điều kiện cư trú để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Xây dựng cho biết, khi làm thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng và khi cấp Giấy chứng nhận đối với nhà ở thì không bắt buộc người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải đáp ứng điều kiện cư trú thực tế tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên mà chỉ cần có các giấy tờ của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài được cư trú tại Việt Nam từ 3 tháng trở lên là đủ điều kiện được mua và sở hữu nhà ở theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 19 của Thông tư số 16/2010/TT-BXD của Bộ Xây dựng.

Bộ Xây dựng đề nghị thống nhất thực hiện quy định về điều kiện cư trú 3 tháng cũng được hiểu là 90 ngày (theo quy định tại Điều 151 của Bộ Luật Dân sự) mà cơ quan xuất nhập cảnh đóng dấu ghi vào hộ chiếu khi người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam.

Về khu vực người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam, Bộ Xây dựng cho biết, theo quy định tại Điều 66 của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đổi nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở (không phân biệt trong dự án phát triển nhà ở hay tại các khu dân cư hiện hữu); được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án phát triển nhà ở của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tại khu vực được phép chia lô bán nền để tự xây dựng nhà ở.

Vì vậy, Bộ đề nghị các địa phương hướng dẫn người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện quyền sở hữu nhà ở và việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở theo đúng quy định tại Nghị định số 71/2010/NĐ-CP của Chính phủ.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Đại đoàn kết đưa tin: Ngày 15-8, tại Hà Nội đã diễn ra cuộc làm việc giữa Ban Thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam và Văn phòng Chính phủ về kết quả thực hiện ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 72/TB-VPCP, về kết luận Hội nghị thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ và UBTƯMTTQ Việt Nam trong những tháng đầu năm 2013. Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký UBTƯMTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim và Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam chủ trì cuộc làm việc.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký UBTƯMTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim cho biết, trên cơ sở của Thông báo 72 của Văn phòng Chính phủ về kết luận Hội nghị thực hiện quy chế phối hợp công tác giữa Chính phủ và UBTƯMTTQ Việt Nam, Ban Thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện các nội dung của kết luận. Nhìn chung, các bộ, ngành liên quan đã tích cực triển khai thực hiện ý kiến kết luận của Thủ tướng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số nội dung cũng còn những vướng mắc cần tháo gỡ, hai bên thống nhất đề xuất với Chính phủ 8 vấn đề cần kịp thời giải quyết.

Theo Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Vũ Trọng Kim, việc phối hợp lấy ý kiến đối với các văn bản quy phạm pháp luật trước khi ban hành, thời gian qua được các bộ, ngành thực hiện khá nghiêm túc. Tuy nhiên vẫn còn một số văn bản gửi xin ý kiến chậm, thời gian quá ngắn, không đảm bảo thời gian để Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam tham gia góp ý được đầy đủ và có chất lượng.

"Đề nghị Văn phòng Chính phủ có ý kiến với các bộ, ngành khi gửi xin ý kiến Mặt trận vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo về thời gian, kèm theo văn bản tài liệu có liên quan, đồng thời có văn bản phản hồi cho Ban Thường trực UBTƯMTTQ Việt Nam biết về việc tiếp thu các ý kiến tham gia của Mặt trận”, ông Vũ Trọng Kim nhấn mạnh...

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lao động bỏ trốn, người thân “gánh“ hậu quả. Theo báo, Người lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp đã và đang là một vấn nạn làm đau đầu của các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Thiệt hại về kinh tế, xã hội và chính sách hợp tác giữa các nước đã được nhìn thấy và cảnh báo, nhưng nhiều trường hợp vẫn vô tư vi phạm, một phần do không biết các quy định pháp luật về trách nhiệm của lao động tại nước ngoài.

Là một luật sư tư vấn nhiều vụ việc trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, luật sư Ngọc Hà, Trưởng Văn phòng luật sư Đa Phúc chỉ ra nguyên nhân tình trạng lao động bỏ trốn một phần do người quản lý lao động (như nhà máy, công xưởng, văn phòng đại diện doanh nghiệp xuất khẩu lao động...) chưa phát hiện kịp thời tranh chấp của người lao động đối với người sử dụng lao động để có biện pháp giúp đỡ, can thiệp dẫn đến việc người lao động bức xúc, tự giải quyết bằng hình thức bỏ việc. Một phần khác do lao động “đứng núi này trông núi nọ” và bị kẻ xấu lôi kéo, xúi giục đã nhanh chóng phá hợp đồng bỏ trốn bất hợp pháp để rồi phải gánh chịu hậu quả do chính mình gây ra.

Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là do người lao động chưa nắm được các quy định của pháp luật liên quan đến hành vi bỏ trốn; cứ tưởng bỏ trốn là không ai có thể “sờ gáy” để phạt mình nữa. “Đây là một sai lầm lớn, phổ biến của người lao động do họ không nhận thức đầy đủ. Thực tế, luật đã siết chặt trách nhiệm của họ.

Theo Điều 45 Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì người lao động có các nghĩa vụ tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động; làm việc đúng nơi quy định; thực hiện nội quy nơi làm việc và về nước sau khi chấm dứt Hợp đồng lao động; chịu trách nhiệm về những thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động.



File đính kèm