Điểm tin báo chí các ngày 20, 21 tháng 7 và sáng ngày 22 tháng 7 năm 2013

22/07/2013
Trong các ngày 20, 21/7 và đầu giờ sáng ngày 22/7/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Công chứng bị gán ghép là bị đơn. Bài báo phản ánh: Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM vừa tuyên xử Phòng Công chứng số 6, TP.HCM (PCC6) thua kiện trong vụ yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu do khai sót người thừa kế.

Vợ chồng ông T. có tạo lập được một căn nhà và đã được UBND quận Bình Thạnh cấp giấy chủ quyền. Năm 1999, ông T. mất không có di chúc. Năm 2006, vợ ông T. họp gia đình thống nhất chia di sản của ông T. để lại cho bà và hai người con (một người con đã chết nên dâu và cháu nội bà được hưởng). Các thành viên đã đề nghị PCC6 công chứng văn bản thỏa thuận như trên. Sau 30 ngày niêm yết công khai thông báo về vụ việc theo quy định và không có ai tranh chấp, khiếu nại, công chứng viên đã đóng dấu, công chứng văn bản. Năm 2007, UBND quận Bình Thạnh ghi nhận chủ sở hữu mới cho căn nhà là các đồng thừa kế nêu trên của ông T.

Năm 2012, ba người con khác của vợ chồng ông T. đang ở nước ngoài phát hiện ra sự việc. Thế là một trong ba người đã nộp đơn kiện đến TAND TP.HCM yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế không đầy đủ nói trên.

Theo TAND TP.HCM, đây là vụ án dân sự mà theo đó, người khởi kiện là nguyên đơn và PCC6 là bị đơn. Tòa này nhận định các đương sự khai không đầy đủ những người cùng hàng thừa kế, dẫn đến việc công chứng viên chứng nhận không đúng văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế. Từ đó, HĐXX tuyên bố văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế mà PCC6 đã công chứng là vô hiệu. PCC6 phải chịu án phí sơ thẩm 200.000 đồng. PCC6 kháng cáo và Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã xử y án sơ thẩm.

Điều đáng nói là đại diện PCC6 khẳng định mình đã thực hiện đúng quy trình. Lỗi kê khai thiếu sót là do phía vợ con ông T. Bà Huỳnh Thị Ngọc Yến, Trưởng phòng PCC6, cho biết: “Công chứng viên làm đúng, làm đầy đủ quy trình công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Việc sót người thừa kế là do các đồng thừa kế khác cố tình che giấu mà điều này thì PCC6 không thể chịu trách nhiệm. Giờ phát hiện ra sai sót thì tòa án có quyền tuyên hủy văn bản nhưng bắt chúng tôi là bị đơn thì vô lý quá. Bởi lẽ giữa PCC6 và nguyên đơn không có bất kỳ tranh chấp gì liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Có hợp lý hay không khi những người làm sai thì vô can, còn người làm đúng như chúng tôi phải nộp tiền án phí?”.

Bà Yến cho biết thêm: “Chúng tôi đã gửi văn bản đến chánh án TAND Tối cao và viện trưởng VKSND Tối cao để xin giám đốc thẩm bản án này”.

Một trưởng PCC tại TP.HCM cũng cho biết phòng mình từng bị tòa án quận X xác định tư cách là bị đơn trong vụ việc tương tự như PCC6. Thế nhưng phòng đã phản ứng quyết liệt và cuối cùng tòa án quận này đã đổi tư cách từ bị đơn thành người có liên quan. Giữa phòng và tòa án quận đều thống nhất đây chỉ là việc dân sự. Việc sót người thừa kế là do người yêu cầu công chứng gian dối chứ công chứng viên đã làm đúng quy trình từ khâu tiếp nhận, xác minh, niêm yết… rồi mới công chứng.

2. Báo Người Đưa tin có bài Thành uỷ Hà Nội 'điều chỉnh' tuổi của chủ tịch quận. Bài báo phản ánh: Theo phản ánh của người dân, hầu hết các giấy tờ trong hồ sơ lý lịch của ông Nguyễn Mạnh Hoàng, phó bí thư Quận ủy, chủ tịch UBND quận Hoàng Mai đều ghi ông Hoàng ngày 7/2/1954. Gần nhất, trong tiểu sử tóm tắt ứng cử đại biểu HĐND quận Hoàng Mai nhiệm kỳ 2011 - 2016, ông Hoàng vẫn khai sinh ngày 7/2/1954.

Từ tháng 3/2013, ông Nguyễn Mạnh Hoàng được Thành ủy Hà Nội chấp nhận cho điều chỉnh lý lịch sinh thành ngày 7/2/1955. Quyết định điều chỉnh ngày tháng năm sinh trong hồ sơ của ông Hoàng đã được Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội về Quận ủy Hoàng Mai công bố. Sau đó, Ban Tổ chức Quận ủy Hoàng Mai tiếp tục công bố quyết định điều chỉnh này đến UBND quận, các phòng ban, các phường trên địa bàn quận Hoàng Mai. Chủ tịch quận Hoàng Mai Nguyễn Mạnh Hoàng đã xác nhận việc được điều chỉnh lý lịch thành sinh ngày 7/2/1955.

Khi được hỏi về các điều kiện để được điều chỉnh lý lịch, ông Nguyễn Mạnh Hoàng từ chối trả lời với lý do ông là cán bộ do Thành ủy Hà Nội quản lý, việc điều chỉnh là việc của Ban tổ chức Thành ủy.

Theo báo Dân trí, trưởng ban tổ chức Quận ủy Hoàng Mai xác nhận việc Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội đã ký và công bố quyết định việc điều chỉnh lý lịch đối với ông Nguyễn Mạnh Hoàng.

Sáng nay, trả lời Người đưa tin, một lãnh đạo Văn phòng Ban tổ chức Thành uỷ cho biết việc này được làm đúng quy trình, có tham mưu ý kiến của Bộ Tư pháp.

3. Báo Dân Việt có bài Đường dây “tẩy trắng” cá tầm lậu: Đằng sau con dấu đỏ... Bài báo phản ánh: Có thật Việt Nam có cơ sở nuôi tới 80 triệu con cá tầm như văn bản chứng thực của UBND xã Long Sơn, huyện Sơn Động (Bắc Giang). Con dấu này là thật hay bị làm giả?

Chiều 19.7.2013, chúng tôi về xã Long Sơn để tìm gặp ông Ngọc Tiến Lệ - Chủ tịch UBND xã Long Sơn – người đã ký tên đóng dấu chứng thực văn bản trong đó có số liệu 80 triệu con cá tầm thương phẩm được nuôi tại hồ Khe Chảo của ông Bùi Thanh Vân (đã đăng trong bài 2 của loạt bài trên NTNN số 172).

Trao đổi với chúng tôi bằng giọng dè dặt, ông Ngọc Tiến Lệ cho biết: Ông Bùi Thanh Vân nuôi cá tầm ở hồ Khe Chảo từ năm 2010, từ một dự án của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Giang có vốn hỗ trợ. Đến năm 2011, ông Vân liên doanh với một ông người Trung Quốc hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng mấy chục bể nuôi cá con, mua trứng về tự ấp nở, một phần mua cá giống về nuôi. Việc nhập hàng, xuất hàng của ông Vân từ trước tới giờ chúng tôi không biết chi tiết, ông Vân cũng không báo cáo chính quyền địa phương về việc xuất cá giống, bán cá thịt

“Đến hôm 25.6, ông Vân bán một chuyến hàng cho ông Nguyễn Văn Nghiêm ở Hà Nội. Sau đó tôi nghe nói là ngày 27.6, ông Nghiêm bị bắt một chuyến hàng ở Lạng Sơn. Tôi nghĩ Nghiêm đã mua hàng đó ở nơi khác mà không có giấy xác nhận nên lấy giấy xác nhận lô hàng ông Vân bán cho mình trước đó để tráo cho lô hàng bị bắt (giấy tờ mà chính ông Lệ đã ký chứng thực - PV). Bởi một điều rất đơn giản là nếu lấy cá ở Sơn Động (Bắc Giang), không thể quay ngược lên Lạng Sơn rồi mới lại về Hà Nội được”-ông Lệ phân tích.
Liên quan đến giấy chứng thực mà mình đã ký và đóng dấu, ông Lệ phân trần: Ông Vân bán cá thật, nhưng số lượng bao nhiêu thì tôi không biết. Chính quyền xã không biết ông Vân nuôi bao nhiêu cá.

Cũng theo lời ông Lệ, ông Vân trước đây là Phó Trưởng phòng Thanh tra của Công an tỉnh Bắc Giang, vừa nghỉ hưu năm 2012. Còn ông Lệ trước đây là Phó Chủ tịch UBND xã Long Sơn, kiêm Trưởng Công an xã. Hai người “chơi với nhau lâu rồi nên tin tưởng nhau”. Khi ông Vân mang Biên bản xác nhận nguồn gốc cá tầm thương phẩm và hợp đồng kinh tế đến UBND xã xin xác nhận để “chứng minh” xuất xứ cá tầm tại địa phương, ông Lệ đã xác nhận luôn. “Tôi thấy bộ phận “một cửa một dấu” trình lên cùng với một tập với giấy tờ của những người khác, nên đã ký luôn”-Chủ tịch UBND xã Long Sơn giải thích.

Trước câu hỏi liệu có chuyện tiêu cực, tiền nong để “mua” giấy tờ chứng thực không, ông Lệ cười gượng: “Cũng có người hỏi tôi điều đó, tôi khẳng định rằng không có chuyện đó. Thỉnh thoảng ông Vân có mời các vị lãnh đạo ở tỉnh lên thăm hồ nuôi cá tầm rồi ăn uống tại đó, đôi lúc tôi cũng đi cùng. Đợt vừa rồi có đoàn khách của T.Ư đến ăn uống ở đó, nhưng không phải ông Vân mời mà xã mời”. Ông Lệ tiếp: Sau khi lô cá tầm của Nghiêm bị bắt ở Lạng Sơn, ông Vân có gọi cho tôi và nói thằng Nghiêm đã lợi dụng hợp đồng anh em mình xác nhận để xác nhận cho lô hàng chắc lấy từ Trung Quốc về. Còn có hay không việc ông Vân “tẩy trắng” cá tầm trong hồ của ông thì tôi chịu vì xã không kiểm tra được.

Rời UBND xã Long Sơn, chúng tôi điện ngay cho ông Vân khi vị đại tá công an về hưu đang chơi tennis ở thành phố Bắc Giang. Ông Vân đồng ý gặp chúng tôi. Sau màn chào hỏi, chúng tôi đi thẳng vào câu chuyện xoay quanh bản xác nhận 80 triệu con cá tầm với dấu đỏ của UBND xã Long Sơn. Ông Vân cho biết: Nghiêm quen biết tôi trên mạng chứ có ai giới thiệu gì đâu. Nghiêm tìm đến nhà tôi và nói sẽ thu mua hết số cá của tôi với giá 185 nghìn đồng/kg và bảo ký hợp đồng tiêu thụ cá trong vòng 1 năm. Tôi sướng quá bởi đang chưa biết bán cá đi đâu. Được trả giá như thế và bao tiêu hết nên tôi đồng ý luôn.

Chúng tôi hỏi về bản hợp đồng và xác nhận 80 triệu con cá tầm có phải do ông viết ra hay không, ông Vân bác bỏ và nói, ông chỉ có khoảng 8 vạn con giống ở hồ Khe Chảo. Còn bản xác nhận 80 triệu con cá tầm là từ chỗ Nghiêm. “Nghiêm soạn giấy xác nhận và hợp đồng kinh tế rồi đưa cho tôi ký... Tôi bán cho Nghiêm vào ngày 24.6.2013 với số lượng trên 5 tấn cá với giá hơn 900 triệu đồng. Đến ngày 27.6, lô hàng của Nghiêm bị bắt ở Lạng Sơn. Số lượng cá của Nghiêm bị bắt (4 tấn) khác với số lượng tôi bán cho Nghiêm. Số cá Nghiêm bị bắt có những con lên tới 6kg, còn cá tôi bán không lớn như thế”.
Ông Vân thừa nhận mua cá tầm giống không rõ nguồn gốc. Ông cùng đến UBND xã Long Sơn xin dấu xác nhận với ông Nghiêm nhưng lại “không chú ý” bản xác nhận có con số 80 triệu con cá.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin về những thông tin văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật trong tuần từ ngày 15-19/7/2013.

- 9 nhóm đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập

Theo Nghị định về minh bạch tài sản, thu nhập đã được Chính phủ ban hành, có 9 nhóm đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm:

1- Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, người được dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân.

2- Cán bộ, công chức từ Phó trưởng phòng của UBND cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.

3- Sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trưởng, người hưởng phụ cấp chức vụ tương đương phó tiểu đoàn trưởng trở lên trong Quân đội nhân dân; sĩ quan chỉ huy từ cấp Phó tiểu đoàn trưởng, Phó trưởng công an phường, thị trấn, Phó đội trưởng trở lên trong Công an nhân dân.

4- Người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên tại bệnh viện, viện nghiên cứu, cơ quan báo, tạp chí, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng có sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, ban quản lý dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).

5- Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề của Nhà nước.

6- Thành viên hội đồng quản trị, thành viên hội đồng thành viên, thành viên ban kiểm soán, kiểm soát viên, người giữ chức danh quản lý tương đương từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp Nhà nước, người là đại diện phần vốn của Nhà nước, phần vốn của doanh nghiệp Nhà nước và giữ chức danh quản lý từ Phó trưởng phòng trở lên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước.

7- Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, ủy viên UBND xã, phường, thị trấn; Trưởng công an, chỉ huy trưởng quân sự, cán bộ địa chính, xây dựng, tài chính, tư pháp-hộ tịch xã, phường, thị trấn.

8- Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm tra viên, thẩm phán, thư ký toà án, kiểm toán viên Nhà nước, thanh tra viên, chấp hành viên, công chứng viên Nhà nước.

9- Người không giữ chức vụ quản lý trong các cơ quan Nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong các lĩnh vực theo quy định như tổ chức cán bộ, tài chính, ngân hàng, công thương, xây dựng, giao thông, y tế...

- Bổ sung 3 đối tượng được miễn học phí

Theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP, các đối tượng được miễn học phí gồm: Người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng; trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc diện hộ nghèo theo quy định của Nhà nước; trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông là con của hạ sĩ quan và binh sĩ, chiến sĩ đang phục vụ có thời hạn trong lực lượng vũ trang nhân dân; học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dự bị đại học, khoa dự bị đại học;...

Ngoài các đối tượng nêu trên, Nghị định 74/2013/NĐ-CP mới được ban hành đã bổ sung thêm 3 đối tượng được miễn học phí gồm: 1- Sinh viên học chuyên ngành Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; 2- Học sinh, sinh viên, học viên các chuyên ngành Lao, Phong, Tâm thần, Pháp y và Giải phẫu bệnh; 3- Học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số rất ít người, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2013.

- Phê duyệt 7 Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 7 Đề án chi tiết tại Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 9/4/2012 ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.

Cụ thể, 7 Đề án gồm:

1-  Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013-2016.

2- Tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư giai đoạn 2013-2016.

3- Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân vùng biên giới, hải đảo giai đoạn 2013-2016.

 4- Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật giai đoạn 2013-2016.

5- Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Truyền hình Việt Nam giai đoạn 2013-2016.

6- Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên Đài Tiếng nói Việt Nam giai đoạn 2013-2016.

7- Xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2013-2016.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập Ban chỉ đạo để triển khai thực hiện Đề án thuộc Chương trình hành động do lãnh đạo UBND tỉnh làm Trưởng ban. Hoạt động của các Đề án đặt dưới sự chỉ đạo của Trưởng ban.

2. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính: Đề xuất… khó khả thi. Bài báo phản ánh: Đề xuất dự thảo Nghị định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính vừa được Bộ Công an công bố để lấy ý kiến.

Trong đó, người vi phạm hành chính nếu không chấp hành nộp phạt, sẽ bị “cưỡng chế” bằng cách:  Khấu trừ vào lương; thu nhập; khấu trừ tiền từ tài khoản hoặc kê biên tài sản… và buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả khác.

Đề xuất dự thảo Nghị định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính quy định: Người vi phạm hành chính nếu không chấp hành nộp phạt, sẽ bị “cưỡng chế”,  khấu trừ vào lương, thu nhập; khấu trừ tiền từ tài khoản hoặc kê biên tài sản…

Nội dung đề xuất trên đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ dư luận. Bên cạnh quan điểm cho rằng quy định trên là cần thiết, thì cũng có những ý kiến cho rằng đề xuất các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính như trên, chưa phù hợp trong tình hình hiện tại.

Thực tế cho thấy, quy định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt đối với các trường hợp vi phạm hành chính, bằng cách khấu trừ vào lương, tài khoản, trước đây cũng đã được quy định tại Nghị định 37/2005 của Chính phủ. Đáng tiếc là, suốt 8 năm qua dường như chưa có trường hợp nào được áp dụng biện pháp xử phạt này.

Do vậy, trước những “lăn tăn” về tính khả thi của quy định, trong đó làm thế nào để xác định được người vi phạm bị cưỡng chế làm việc ở đâu, có tài khoản hay không, Đại tá Trần Thế Quân, Vụ phó Vụ Pháp chế, Bộ Công an nói: “Từ những năm 2005, khi đưa ra quy định này thì phần lớn người lao động chưa được trả lương qua tài khoản. Tuy nhiên, tôi cho rằng các biện pháp này là phù hợp với xu thế phát triển. Còn việc xác định người vi phạm thì sẽ có nhiều biện pháp để hỗ trợ cho cơ quan chức năng. Chẳng hạn sau này chúng ta có cơ sở dữ liệu quốc gia, việc xác định thông tin liên quan về một người làm việc gì, ở đâu sẽ không phải là điều khó”.

Có thể thấy, Dự thảo Nghị định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính như trên, nhằm mục đích thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính một cách nghiêm minh; giáo dục răn đe người vi phạm, đảm bảo sự công bằng của mọi công dân trước pháp luật. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng việc triển khai thực hiện “cưỡng chế” trong điều kiện kinh tế xã hội, dân trí như hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.

Ở góc nhìn xã hội học, ông Bùi Danh Liên, người từng được Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Pháp luật, mời tham gia hội thảo đóng góp ý kiến xây dựng Luật Xử lý hành chính cho biết: “Thứ nhất, về đối tượng bị cưỡng chế, phải có tài khoản mở tại ngân hàng; hưởng BHXH; hoặc hưởng lương, hưởng thu nhập ở một cơ quan doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức… nghĩa là đối tượng thuộc diện có hợp đồng lao động và có việc làm ổn định. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, không khó để nhận thấy rất nhiều cán bộ CNV và người lao động chưa ổn định, nay đơn vị này mai chuyển đơn vị khác. Hơn nữa, phần lớn doanh nghiệp, đơn vị không trả lương qua tài khoản. Thứ hai, muốn cưỡng chế qua tài khoản, giữa cơ quan ra quyết định xử phạt người vi phạm và ngân hàng, bảo hiểm (người vi phạm có tài khoản hoặc có quyền lợi) cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Việc phối hợp này rất phức tạp và phải có những quy định cụ thể chặt chẽ mới làm được. Thứ ba, thói quen của người Việt Nam là giữ tiền mặt, để giao dịch trực tiếp. Do thu nhập ít chỉ đủ chi trả cho những chi tiêu hàng ngày, nên phần lớn người dân không dư tiền để gửi ngân hàng. Chính vì vậy, dù đề xuất “cưỡng chế” mà Bộ Công an vừa đưa ra rất văn minh, rất hay nhưng tiếc rằng với điều kiện hiện tại thì phải mất nhiều năm nữa, chúng ta mới có thể thực hiện được”.

Mặt khác, số tiền “cưỡng chế” – phạt lỗi vi phạm hành chính nên không nhiều. Nếu có thu được, chưa chắc đã bù lại được những chi phí phải bỏ ra để huy động lực lượng tiến hành “cưỡng chế”. Đó là chưa nói đến việc nhiều khả năng còn mất công toi, không thu được tiền.

Trao đổi với PV báo PL&XH xung quanh vấn đề trên, LS Nguyễn Hoàng Tiến, Ủy viên Hội đồng Khen thưởng kỷ luật (Đoàn Luật sư Hà Nội), Trưởng VP Luật sư Đức Thịnh cho biết: “Những quy định “cưỡng chế” thi hành Nghị định xử phạt hành chính như trên, dẫu có vấp phải những khó khăn từ thực tế, nhưng một văn bản pháp luật bao giờ cũng mang tính răn đe là chính – đây mới là điều quan trọng nhất, chứ không nhất thiết phải đạt được tất cả mục đích nêu trong văn bản pháp luật ấy. Biết rằng không đạt được như điều luật qui định, nhưng vẫn phải hướng tới phát triển của tương lai để qui định. Trong tình hình hiện nay thực hiện được đến đâu tốt đến đó”.

Trước lo ngại về những quy định trên cũng rơi vào tình trạng “chết yểu” như nhiều quy định khác, LS Nguyễn Hoàng Tiến bình luận: “Có nhiều văn bản pháp luật rất khó thực hiện trong thực tế mà chúng ta đã biết. Ở đây có thể thấy, rõ ràng cưỡng chế người không có tài sản thì không cưỡng chế được. Và nhiều khi người dân hoặc tổ chức có tài sản… nhưng vẫn không cưỡng chế được. Người có quyền lợi liên quan “kêu” mỏi miệng cũng chẳng ai để ý, còn cơ quan Nhà nước có quyền cưỡng chế thì lại không ra quyết định cưỡng chế, và cũng không thèm phải trả lời người bị hại hoặc người liên quan. Do vậy văn bản pháp luật phải ra đời thì cứ ra đời, còn việc thi hành pháp luật đó lại là việc khác, dẫn đến căn bệnh xã hội là nhờn luật”.



File đính kèm