I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Tuyên án tréo ngoe, tòa... “đánh đố“ thi hành án. Bài báo phản ánh: Có muôn vàn kiểu tuyên án tréo ngoe mà có đến hàng chục năm cơ quan THA cũng không thể thi hành được. Những bản án này khiến cho cơ quan THA mất nhiều công sức xác minh, làm văn bản hỏi, còn Tòa án thì lúng túng vì đã... trót tuyên rồi, mà theo quy định không thể tùy tiện đính chính.
Một bản án đã tồn tại đến trên chục năm vẫn đang nằm chờ… thi hành ở cơ quan thi hành án dân sự (THADS) của Hà Nội. Đó là bản án số 757/HSST ngày 28 -29/9/1995 của TAND TP. Hà Nội đối với Nguyễn Sỹ Sơn và đồng bọn phạm tội “Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai gây hậu quả nghiêm trọng”.
Về dân sự, thu hồi toàn bộ số đất khu Đầm Hồng, Đầm Sen và 2.500 m2 đất (về danh nghĩa cấp cho đơn vị phòng không). Các bị cáo đã mua đi, bán lại bất hợp pháp, giao chính quyền địa phương.
Do quyết định của bản án không xác định cụ thể, rõ ràng mốc giới hiện trạng diện tích đất phải thu hồi nên Cục THADS TP. không có cơ sở thi hành theo quyết định của bản án dẫn đến vụ việc tồn đọng, kéo dài nhiều năm. Cục THADS TP đã có công văn yêu cầu TAND TP giải thích quyết định của bản án.
Mặc dù TAND TP Hà Nội đã có văn bản giải thích nhưng vẫn không xác định được rõ mốc giới cụ thể và sơ đồ hiện trạng diện tích đất phải thu hồi. Mặt khác hiện nay hiện trạng đất ở khu vực nói trên đã có nhiều biến động do người dân xây dựng nhà ở và các công trình trên đất.
Cục THADS đã tổ chức nhiều cuộc họp, mời đại diện các cơ quan TW và TP những vẫn không đưa ra được biện pháp hữu hiệu để giải quyết dứt điểm vụ án. Cục THADS TP cũng đã có báo cáo gửi Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp và UBND TP. Hà Nội đề nghị chỉ đạo giao UB quận Thanh Xuân có phương án thu hồi quản lý sử dụng đất theo hướng phục vụ mục đích công cộng và lập dự án tổng thể giải phóng mặt bằng theo quy định hiện hành như nội dung chỉ đạo của UBND TP, đồng thời đề xuất theo hướng ra quyết định thu hồi quyết định THA để kết thúc THA.
Không hiếm những trường hợp án tuyên kiểu đánh đố như nói trên. Không chỉ là những vụ án có quy mô lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều người mà cả những vụ án tranh chấp giữa nhỏ lẽ, giữa cá nhân với nhau thì việc tuyên án cũng nhiều sơ suất gây khó khăn cho cơ quan THA.
Còn nhớ ở Bắc Kạn có vụ Tòa xử cho bên được thi hành án quyền ”sử dụng trâu” trong khi con trâu vẫn do bên bị thi hành án trông giữ. Lẽ ra trong vụ này, Tòa phải tuyên trả trâu về cho chủ cũ khi nó bị thất lạc (tức trao quyền sở hữu) nhưng Tòa lại tuyên sử dụng.
Cứ mùa vụ đến hay lúc cần trâu kéo hàng, người chủ trâu lại khổ sở đến mượn trâu trong khi trâu là của mình. Người giữ trâu gây khó dễ không muốn cho trâu về thế là họ lại đến ”đòi” chấp hành viên.
Còn ở Lào Cai, cũng là một vụ trộm trâu, những Tòa phúc thẩm chỉ công nhận quyền sở hữu 2 con trâu chứ không có chế tài buộc người trộm trâu trả trâu về cho khổ chủ.
Phát hiện thiếu sót này, TAND tỉnh Lào Cai ra thông báo sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm: buộc người trộm trâu trả trâu về cho chủ cũ, tuy nhiên người phải THA đã đem trâu thả lên rừng, vì cho rằng không nhận được thông báo của Tòa tỉnh. Thêm nữa, bản án không bắt ông phải trả trâu nên không thể truy cứu trách nhiệm hình sự, và cũng không buộc ông phải thi hành cái... không có trong bản án.
Bản án này sau đó bị VKSNDTC kháng nghị để sửa chữa do có ”sai sót nghiêm trọng”.
Thực tế, có muôn vàn kiểu tuyên án tréo ngoe mà có đến hàng chục năm cơ quan THA cũng không thể thi hành được. Ví dụ như tuyên di chuyển bức tường, hàng cây, tuyên chia một phòng trong ngôi nhà những lại quên mất lối đi, tuyên trả tang vật cho người bị hại nhưng không nói rõ tang vật đó là gì; hay tuyên quyền lưu cư mà không rõ thời hạn, tuyên cả nghĩa vụ phải thi hành đối với người chết...
Những bản án này khiến cho cơ quan THA mất nhiều công sức xác minh, làm văn bản hỏi, còn Tòa án thì cũng lúng túng vì đã... trót tuyên rồi, mà theo quy định không thể tùy tiện đính chính.
2. Báo Quân đội nhân dân có bài Muôn vẻ "làm tắt" công chứng hợp đồng, giao dịch. Bài báo phản ánh: Nhằm chiếm lĩnh thị trường, thu hút khách hàng, nhiều cửa hàng kinh doanh xe ô tô cũ đã “móc ngoặc” với công chứng viên, làm “tắt” các thủ tục giấy tờ. Phổ biến nhất là hợp đồng ủy quyền, hợp đồng mua bán xe ô tô. Gọi là làm "tắt" nhưng thực chất đây là hành vi lách luật, vi phạm các quy định của Luật Công chứng. Ngoài mục đích hút khách, dễ bán được xe thì đây còn là thủ đoạn trục lợi, móc túi người tiêu dùng của một số đối tượng.
Ngày 28-5-2013, chị Dương Quỳnh Anh (hộ khẩu thường trú tại xóm 19, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội) có đơn trình báo gửi Công an TP Hà Nội và các cơ quan chức năng tỉnh Vĩnh Phúc. Theo nội dung lá đơn trên: Tháng 4-2013, chị Quỳnh Anh có mua chiếc xe ô tô (đã qua sử dụng) nhãn hiệu Lexus, biển kiểm soát 30P-0445 tại cửa hàng Auto Chương Dương, số 8 Nguyễn Văn Cừ, quận Long Biên, TP Hà Nội. Nhân viên cửa hàng yêu cầu chị Quỳnh Anh phô-tô chứng minh nhân dân, hộ khẩu thường trú để làm hợp đồng mua bán xe. Nhân viên cửa hàng nói sẽ “làm nhanh” giúp khách hàng làm các thủ tục đăng ký sang tên đổi chủ, chuyển quyền sở hữu phương tiện. Sau khi nộp các giấy tờ cần thiết, cửa hàng yêu cầu chị Quỳnh Anh ký vào Hợp đồng mua bán xe rồi hẹn 1 ngày sau đến lấy hợp đồng.
Chị Quỳnh Anh cho biết: “Khi ký các loại giấy tờ trên, tôi không được gặp chủ cũ của phương tiện. Mặc dù trong hợp đồng mua bán xe, tên của chủ cũ vẫn ở mục người bán. Sau đó vài ngày, nhân viên cửa hàng tên là Hùng gọi điện thông báo cho tôi đến lấy giấy tờ. Xem giấy tờ, tôi rất bất ngờ khi hợp đồng mua bán xe giữa tôi và chủ phương tiện (người đứng tên trên giấy đăng ký xe) đã được thực hiện xong, có chứng nhận của Phòng Công chứng số 2 tỉnh Vĩnh Phúc.
Lần theo những chi tiết ghi trên hợp đồng mua bán xe và những chứng cứ, tài liệu chị Dương Quỳnh Anh cung cấp, chúng tôi đã xác định được công chứng viên viết lời chứng cho giao dịch mua bán trên là Hoàng Minh Khoa, cán bộ Phòng Công chứng số 2 tỉnh Vĩnh Phúc. Theo thông tin ban đầu, cửa hàng Auto Chương Dương luôn có sẵn các mẫu hợp đồng ủy quyền và hợp đồng mua bán ô tô. Khi khách hàng mua xe của họ, nhân viên bán hàng sẽ gợi ý làm giúp các thủ tục giấy tờ để tiện cho việc đăng ký chuyển quyền sở hữu phương tiện. Theo dịch vụ này, khách hàng chỉ việc ký sẵn vào các bản hợp đồng mua bán hoặc ủy quyền, cửa hàng sẽ hoàn tất các thủ tục hợp pháp giữa chủ cũ và chủ mới của chiếc xe. Thời gian hoàn tất bản hợp đồng mua bán công chứng chỉ sau một ngày và tất nhiên, khách hàng không cần phải tìm chủ cũ phương tiện, thậm chí không cần biết họ là ai.
Chia sẻ với chúng tôi, chị Dương Quỳnh Anh cho biết: “Tôi cảm thấy bất an vì việc này. Bởi lẽ, tôi chưa từng gặp bà Đặng Thị Tuấn Anh (hộ khẩu thường trú tại P24, D3, TT Giảng Võ, quận Ba Đình, TP Hà Nội - là người đứng tên trên đăng ký xe) và không thực hiện hợp đồng mua bán với bà Đặng Thị Tuấn Anh tại Phòng Công chứng số 2 tỉnh Vĩnh Phúc. Theo Luật Công chứng: Việc chứng nhận hợp đồng mua bán của Công chứng viên Hoàng Minh Khoa, Phòng Công chứng số 2 tỉnh Vĩnh Phúc khi không có mặt bên mua và bên bán là sai. Đề nghị các cơ quan chức năng điều tra, làm rõ sự việc”.
Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, Luật sư Hoàng Nhựt Giã, Công ty Luật hợp danh Phúc Đức cho biết: “Theo Điều 39 Luật Công chứng thì việc công chứng hợp đồng, giao dịch phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác”.
Để tìm hiểu vấn đề, tôi đã nhiều lần đóng vai khách hàng đi mua xe ô tô và có nhu cầu làm hợp đồng mua bán với chủ xe cũ nhưng không muốn trực tiếp đến phòng công chứng (làm tắt). Lân la tại các cửa hàng, showroom bán xe trên các phố như Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Cừ, tôi được giới thiệu một người tên Hoàng, chuyên mua bán xe cũ và có khả năng làm hợp đồng mua bán (có chứng thực của công chứng Nhà nước). Sau một lần gặp mặt, tôi trình bày nguyện vọng là có mua chiếc xe ô tô, nhưng vì chủ cũ (người đứng tên trong đăng ký) ở xa nên không thể cùng tôi đến phòng công chứng làm hợp đồng mua bán, nhờ Hoàng giúp tôi làm “tắt” hợp đồng này. Anh Hoàng dặn tôi chỉ cần phô-tô chứng minh nhân dân, hộ khẩu thường trú của bên mua (tôi) và bên bán (chủ phương tiện đứng tên trên giấy đăng ký xe) rồi ký sẵn vào 3 bản hợp đồng. Nói rồi anh Hoàng đưa cho tôi 3 trang cuối của hợp đồng mua bán xe ô tô do Văn phòng Công chứng Quang Trung, ở số 54, Xuân Hà, Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Nói về chi phí, anh Hoàng bảo tôi chuẩn bị 2 triệu đồng, hôm sau nộp cùng bản sao giấy tờ tùy thân.
Giao dịch giữa tôi và Hoàng thực hiện rất suôn sẻ. Chỉ với 2 triệu đồng, một bản hợp đồng mua bán xe ô tô có chứng thực của cơ quan công chứng Nhà nước đã thực hiện xong mà không cần sự có mặt của những người có trách nhiệm thực hiện hợp đồng. Đặc biệt, công chứng viên đã chứng thực, ký tên, đóng dấu, chứng nhận Hợp đồng mua bán được giao kết giữa bên bán và bên mua chỉ dựa trên bản sao giấy tờ tùy thân, hộ khẩu thường trú phô-tô.
Đây là những hành vi vi phạm nghiêm trọng luật pháp. Bởi lẽ, theo Điều 41 của Luật Công chứng: "Người yêu cầu công chứng phải ký vào văn bản công chứng trước mặt công chứng viên". Mặt khác, tại Khoản 2, Điều 35 Luật Công chứng quy định đối với việc công chứng hợp đồng đã được soạn thảo sẵn thì: "Khi nộp bản sao giấy tờ tùy thân thì người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản chính để đối chiếu"... Rõ ràng đây là thủ đoạn lách luật nhằm trục lợi, móc túi người tiêu dùng. Đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm minh các đối tượng.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tài sản vợ chồng: Sẽ rạch ròi chung, riêng. Bài báo phản ánh: Thay vì áp đặt một chế độ tài sản trong hôn nhân, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cho phép lập hôn ước trước hôn nhân để bảo vệ tài sản riêng của từng cá nhân, giúp giảm thiểu xung đột, tiết kiệm án phí khi ly hôn.
Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ) năm 2000 chỉ dự liệu một chế độ tài sản pháp định. Theo đó, luật quy định chung cho tất cả cặp vợ chồng về căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng và về phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Về nguyên tắc, đây là chế độ tài sản trong hôn nhân duy nhất được pháp luật thừa nhận. Từ chỗ áp đặt như thế, luật không đáp ứng được những nhu cầu khác nhau của các cặp vợ chồng trong việc thực hiện các quan hệ tài sản. Đáng nói là việc chứng minh đâu là tài sản riêng trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn nếu hai bên không có thỏa thuận trước hoặc không có các chứng cứ, tài liệu để chứng minh cụ thể.
Lần này, dự thảo luật cho phép thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng. Thỏa thuận này phải được lập trước khi đăng ký kết hôn và chỉ có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Trường hợp muốn sửa đổi, bổ sung hoặc thay đổi chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì có hai phương án. Thứ nhất, chỉ được thay đổi sau hai năm thỏa thuận. Thứ hai, được quyền thay đổi theo thỏa thuận. Việc thay đổi này có hiệu lực kể từ ngày văn bản thỏa thuận được công chứng, chứng thực.
Sở Tư pháp TP.HCM đồng thuận với phương án hai. Ngoài ra, Sở cũng lưu ý không cần giới hạn thời gian tối thiểu để thực hiện quyền này vì quyền lựa chọn chế độ tài sản là quyền của vợ chồng.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM, cũng chọn phương án hai. “Pháp luật nên quy định vợ chồng có quyền thay đổi thỏa thuận tài sản bất cứ lúc nào mà họ muốn. Bởi xét cho cùng đó là quyền lợi của hai bên” - luật sư Hậu đề xuất.
Theo luật sư Lê Văn Hoan (Đoàn Luật sư TP.HCM), nếu được thỏa thuận chế độ tài sản ngay từ đầu thì sẽ đỡ rắc rối. “Cái này có thể gọi là “khế ước hôn nhân”. Những thỏa thuận này có thể lập theo hướng tài sản của ai vẫn thuộc về người đó cả sau khi kết hôn lẫn ly hôn. Hoặc cả hai có thể thỏa thuận về việc đóng góp tài sản làm của chung, điều kiện sống... Càng rõ ràng chừng nào thì càng hạn chế được tranh chấp dễ gây bất ổn xã hội. Khi đó tránh được sự nhập nhằng những gì của chồng đều là của vợ hay ngược lại và những người có công lao lớn tạo nên khối tài sản như ông P. nói ở trên không còn bị thiệt” - luật sư Hoan khẳng định.
Liên quan đến chỗ ở của vợ chồng, dự luật quy định việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà ở là nơi sinh sống duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Quy định này được áp dụng kể cả trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng hoặc nhà do một bên thuê trước khi kết hôn.
Luật sư Hậu lo ngại ràng buộc đó sẽ gây ra nguy cơ tranh chấp không chỉ cho hai bên mà cho cả người thứ ba. Ông nêu lý lẽ: “Đã là nhà riêng thì vợ/chồng phải có quyền của chủ sở hữu, chưa kể họ cũng phải gánh chịu nghĩa vụ riêng của mình. Cớ gì luật chấp thuận cho bên còn lại dù không là chủ sở hữu vẫn có quyền quyết định giao dịch của chủ sở hữu?”.
Luật sư Hoan cũng cho rằng điều luật này không ổn vì đã gọi là tài sản riêng thì tại sao vợ/chồng lại không có quyền định đoạt. Vợ, chồng muốn có hạnh phúc vẫn cần có khoảng cách nhất định và sự rõ ràng, minh định về tài sản cũng góp phần làm nên điều này. Hiện nay các luật khác như Luật Đất đai, Luật Nhà ở đều quy định rất rõ nhà, đất của vợ chồng thì phải đứng tên vợ chồng. Tuy nhiên, trong thực tế chỉ cần một người đứng tên mua nhà thì nhà đó được xác định là của chung, nếu vậy thì có phải quy định ghi hai tên là thừa? Theo luật sư Hoan, đối với tài sản phải đăng ký thì người đứng tên là người chủ sở hữu và đương nhiên nếu là tài sản riêng thì họ phải có toàn quyền định đoạt.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Trang CafeLand.vn có bài Nhà ở xã hội: Loạn văn bản pháp quy. Bài báo phản ánh: Bộ Xây dựng vừa có công văn 1250/BXD-QLN hướng dẫn xác định đối tượng, điều kiện và trình tự thủ tục khi cho vay hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Nghị quyết số 02/NQ-CP, ngày 7/1/2013 của Chính phủ.
Một số điểm quan trọng được văn bản này nêu rõ: hộ gia đình, cá nhân khi có hợp đồng thuê, thuê mua, mua nhà ở xã hội đã ký kết với chủ đầu tư dự án sau ngày 7/1/2013 được coi là đủ điều kiện được vay trong gói tín dụng hỗ trợ nhà ở; có đủ mức vốn tối thiểu tham gia vào phương án vay theo quy định và đáp ứng khả năng trả nợ theo điều kiện vay vốn của ngân hàng; và người mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở thu nhập thấp có thể dùng căn hộ nhà ở xã hội, nhà ở thu nhập thấp đã hoàn thành hoặc sẽ hình thành trong tương lai (HTTTL) để làm tài sản bảo đảm khoản vay với ngân hàng.
Bảo đảm an toàn khoản vay là yêu cầu bắt buộc đối với các ngân hàng. Chính vì vậy, với nhà ở đã hình thành và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở thì việc vay vốn là khá dễ dàng về mặt thủ tục. Bởi khi đó, giao dịch đáp ứng đầy đủ các điều kiện về đăng ký giao dịch bảo đảm, thế chấp và công chứng.
Tuy nhiên, đa số dự án nhà ở xã hội hiện nay vẫn trong tình trạng nằm trên giấy, hoặc đã triển khai một phần nên dù người mua có đáp ứng đầy đủ hướng dẫn của Bộ Xây dựng và ngân hàng thì việc thế chấp căn hộ HTTTL để làm tài sản bảo đảm khoản vay với ngân hàng có thể vẫn gặp vướng mắc. Nhất là cho đến nay, các cơ quan chức năng vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề này.
Luật sư Trương Thanh Đức - Chủ tịch Công ty Luật BASICO phân tích, theo các quy định phải áp dụng trong việc thế chấp nhà ở tại Luật Nhà ở năm 2006, giao dịch thế chấp phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật; bên thế chấp phải là chủ sở hữu nhà ở; văn bản thế chấp nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của UBND xã đối với nhà ở tại nông thôn và không loại trừ bất kỳ trường hợp nào…
Chưa hết, nhiều rào cản khác còn liên quan đến việc hợp đồng thế chấp nhà ở HTTTL không qua được “cửa” công chứng, do không đáp ứng được điều kiện “đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật”, theo quy định tại Điều 5, Luật Công chứng năm 2006…
Phân tích của ông Đức cho thấy, dù các Thông tư hướng dẫn về vấn đề này có được xây dựng hoàn thiện thế nào đi nữa, nhưng Luật Nhà ở và Luật Công chứng chưa được sửa đổi kịp thời thì việc thực thi vẫn trái với quy định hiện hành. Khi rủi ro pháp lý như vậy xảy ra, các TCTD sẽ không dám nhận tài sản thế chấp là nhà ở HTTTL.
Cũng liên quan đến công văn 1250/BXD-QLN, mới đây liên bộ Tư pháp - Tài nguyên và Môi trường cũng đã cho ý kiến bước đầu về dự thảo thông tư liên tịch hướng dẫn đăng ký thế chấp nhà ở HTTTL và việc chuyển tiếp thời điểm đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL với thời điểm đăng ký thế chấp nhà ở được hình thành, đang được soạn thảo.
Dù chỉ mới ở giai đoạn ban đầu, đã có nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến nội dung quan trọng nhất là: những loại nhà ở HTTTL nào sẽ được ngân hàng nhận thế chấp và loại nào sẽ được đăng ký thế chấp.
Về vấn đề này, đã xuất hiện 2 luồng ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị hướng dẫn việc đăng ký thế chấp đối với tất cả các loại nhà ở HTTTL, bao gồm nhà ở HTTTL của tổ chức, cá nhân mua của các tổ chức có chức năng kinh doanh bất động sản theo quy định của Nghị định 71/2010/NĐ-CP và nhà ở HTTTL đã được cấp giấy phép xây dựng hoặc được miễn giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật, được xây dựng trên diện tích đất ở của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Lý do được đưa ra là, các tổ chức, cá nhân trong xã hội hiện nay có nhu cầu rất lớn trong việc sử dụng tài sản này để thế chấp vay vốn tại ngân hàng. Mặt khác, thực tiễn cho thấy, tỷ lệ nhà ở được công nhận sở hữu tại nhiều địa phương rất thấp. Do đó, nếu không quy định đối với nhà ở nói chung thì rất khó để các tổ chức, cá nhân có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng.
Loại ý kiến thứ hai thì cho rằng, dự thảo thông tư liên tịch chỉ nên hướng dẫn việc đăng ký thế chấp đối với các loại nhà ở HTTTL của tổ chức, cá nhân mua của các tổ chức có chức năng kinh doanh bất động sản. Nhưng, luồng ý kiến này không nhận được sự đồng tình của số đông, với lý do rằng khi mở rộng đối tượng áp dụng trong việc thế chấp nhà ở HTTTL sẽ tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể, tạo điều kiện cho họ có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng.
Còn về phía người cho vay, tại cuộc tọa đàm vướng mắc pháp lý trong hoạt động của TCTD, do Câu lạc bộ Pháp chế ngân hàng (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) tổ chức, một số ý kiến chia sẻ rằng, thế chấp bảo đảm tiền vay trong hoạt động ngân hàng đang gặp rất nhiều vướng mắc. Nhưng, điều oái oăm là khi luật, văn bản hướng dẫn càng thay đổi thì càng phát sinh vướng mắc.
Hiện nay, riêng bảo đảm tiền vay với nhà ở HTTTL phải cần đến 4 thông tư hướng dẫn. Trong đó, có thông tư giao NHNN, Bộ Xây dựng hướng dẫn thế chấp nhà ở HTTTL; thông tư về xử lý tài sản là nhà ở HTTTL khi thế chấp; thông tư liên tịch hướng dẫn đăng ký thế chấp nhà ở HTTTL đang được Bộ Tư pháp soạn thảo; và một thông tư rất quan trọng khác hướng dẫn về công chứng nhà ở HTTTL nhưng chưa giao cho cơ quan nào xây dựng.
“Nhà ở HTTTL chỉ là một phần của toàn bộ khối tài sản HTTTL thế chấp trong ngân hàng mà đã yêu cầu phải có đến 4 thông tư hướng dẫn. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa ban hành được thông tư nào thì chính sách cho vay mua nhà ở xã hội sẽ rất khó thi hành trong thực tiễn cuộc sống”, một vị cán bộ ngân hàng nói.
Từ các vướng mắc trong thực hiện thế chấp tài sản HTTTL, nhiều chuyên gia bình luận rằng, các cơ quan Nhà nước ban hành văn bản dường như đã không căn cứ vào thực tiễn mà chỉ căn cứ vào nhiệm vụ được giao.
Các cơ quan tham mưu cho Chính phủ như Bộ Tư pháp chỉ được giao về đăng ký giao dịch bảo đảm, còn tại Nghị định 71/2010/NĐ-CP Bộ Xây dựng lại tham mưu cho Chính phủ là giao NHNN hướng dẫn về thế chấp nhà ở HTTTL. Cách tham mưu như vậy khiến vấn đề trở nên rất phức tạp.
Các chuyên gia pháp luật đề nghị, các cơ quan thuộc Chính phủ có thể nghiên cứu ban hành chung một thông tư liên ngành, gồm 4 bộ và cơ quan ngang bộ: NHNN, Tư pháp, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, hướng dẫn chung cho toàn bộ phần tài sản HTTTL, tài sản hình thành từ vốn vay. Nếu không, rủi ro cho hệ thống ngân hàng có thể xảy ra.
2. Báo Dân trí có bài Mẹ Việt Nam anh hùng có thể chỉ ở độ tuổi... 30. Bài báo phản ánh: Ông Tạ Văn Thiều-phó Cục trưởng Cục Người có công, Bộ LĐ,TB&XH cho biết: “Với Nghị định và Pháp lệnh ưu đãi với người có công hiện tại thì mẹ Việt Nam anh hùng có thể ở độ tuổi khoảng 30”. Như vậy, quy định cộng điểm cho bà mẹ VNAH không phải là thiếu thực tế.
Ông Thiều cũng khẳng định, Thông tư của Bộ GD-ĐT bổ sung diện bà mẹ Việt Nam anh hùng; người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 vào diện ưu tiên không quá xa vời với thực tế.
Ngày 4/7/2013, Bộ GD-ĐT đã có Thông tư số 24/2013/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung đối tượng ưu tiên quy định trong Quy chế tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính. Thông tư mới quy định: Bổ sung đối tượng ưu tiên vào đối tượng 03, gồm: Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;…”.
Sau khi Bộ GD-ĐT công bố thông tư này đã có nhiều ý kiến cho rằng quy định này không thực tế bởi nếu bà mẹ Việt Nam anh hùng có dự thi ĐH thì cũng ở độ tuổi xế chiều.
Giải thích về quy định này, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga cho biết, thông tư mới được ban hành để cập nhật các đối tượng được hưởng chính sách ưu tiên trong tuyển sinh nhằm thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 77 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của Chính phủ về việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó giao Bộ GD-ĐT: “Hướng dẫn thực hiện việc ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo đối với người có công với cách mạng và con của họ tại các cơ sở thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”.
Ngày 22/5/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, văn bản này không có qui định giới hạn tuổi của bà mẹ Việt Nam anh hùng, theo quy định về đối tượng được xét tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” tại Điều 2 Nghị định số 56/2013/NĐ-CP thì không chỉ người trong thời kỳ kháng chiến mà nhiều người trong thời kỳ hiện nay cũng có thể được phong tặng danh hiệu này.
Bộ GD-ĐT cũng cho biết thêm, thông tư này cũng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tinh thần trách nhiệm của xã hội đối với những người có công với nước, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, dù biết rằng đối tượng bổ sung có thể rất ít.
Để làm rõ thêm về vấn đề này, PV Dân trí đã có cuộc trao đổi thêm với ông Tạ Văn Thiều - phó Cục trưởng Cục Người có công, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Ông Thiều cho biết, xã hội đang hiểu nhầm về quy định phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng thời chiến. Trên thực tế với pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” thì hoàn toàn có thể xảy ra câu chuyện một bà mẹ chưa tròn 30 tuổi vẫn được phong tặng “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
3. Cũng về vấn đề này, Trang Kienthuc.net.vn có bài Bà mẹ VN anh hùng được ưu tiên khi thi. Bài báo phản ánh: Tại Thông tư số 24/2013/TT-BGDĐT do Bộ GDĐT ban hành ngày 4.7 có điều khoản Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người hoạt động cách mạng trước 1.1.1945 thuộc đối tiện ưu tiên khi dự thi ĐH.
Từ phía những người làm chính sách cho người có công, ông Đỗ Đăng Khoa - Trưởng phòng Chính sách 2, Cục Người có công (Bộ LĐTBXH) nhận định: “Khi đã ưu đãi cho người có công thì tất cả mọi đối tượng người có công từ thương binh, bệnh binh, con đối tượng chính sách… đều được hưởng và tất nhiên là mẹ Việt Nam Anh hùng cũng không loại trừ khỏi các trường hợp ấy”.
Theo Cục Người có công thì Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” quy định có 4 trường hợp được phong Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Vì thế, khi bổ sung ở thời bình thì sẽ có các trường hợp mới.
“Thực tế, đã có một số bà mẹ chỉ có 1 con hy sinh trong thời bình được phong tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, vì thế chuyện ưu đãi cũng là hợp lý. Tuy nhiên, nếu tính độ tuổi của các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng hiện nay thì đúng là chẳng có ai được hỗ trợ thật” - ông Khoa nói.
Xem xét từ thực tiễn, đa phần ý kiến của các chuyên gia và người dân lại cho rằng nội dung của thông tư này như “đi trên mây”, thiếu tính sát thực.
Ông Đỗ Văn Mười - Trưởng phòng Người có công (Sở LĐTBXH tỉnh Thanh Hoá) cho biết: “Hiện cả tỉnh có 1.526 mẹ Việt Nam Anh hùng, mẹ nhiều tuổi nhất là 112 tuổi, ít tuổi nhất cũng đã 87 tuổi. Con cái của các mẹ người còn người mất, nhưng nếu còn cũng ở tuổi thất thập cổ lai hy, đâu ai còn muốn thi đại học nữa đâu mà ưu đãi”.
“Chả hiểu những người soạn thảo thông tư này đang sống ở thời đại nào. Tôi chắc là khi soạn thảo, họ cứ bê nguyên đối tượng được ưu đãi vào mà không cần biết tới thực tế” – ông Mười nói.
Không riêng gì ông Mười, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực người có công cũng cùng chung nhận định. Ông Đặng Như Lợi – nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng: “Thông tư này được soạn thảo quá hình thức. Con lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng có khi đã hiếm rồi nói gì đến việc ưu tiên điểm thi đại học cho mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công. Đúng là chuyện thật mà như đùa”.
“Ngay cả đến người bình thường cũng chưa nghĩ đến chuyện các mẹ Việt Nam Anh hùng đi thi đại học, huống hồ những nội dung này lại được viết ra từ những cái đầu của những bậc giáo sư, tiến sĩ” – ông Lợi nói.