Trong buổi sáng ngày 10/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: Chiều nay (9.3), tại Macao, Trung Quốc, trong phiên họp toàn thể thường niên Ủy ban Ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO, Hồ sơ Bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442 - 1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội (Bia Tiến sĩ Văn Miếu) đã được công nhận là Di sản tư liệu thế giới.
Sau Mộc bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới (Memory of the World) của UNESCO. Đây là sự kiện vô cùng ý nghĩa với Thủ đô trước thềm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Báo cũng phản ánh: Mặc dù được thế giới công nhận là nước đi đầu trong khu vực ở lĩnh vực thúc đẩy bình đẳng giới, song VN vẫn còn nhiều việc cần làm. Đây là đánh giá của ông John Hendra, Điều phối viên của Liên Hiệp Quốc tại VN trong buổi công bố Báo cáo Phát triển con người khu vực châu Á - Thái Bình Dương 2010 hôm qua, tại Hà Nội.
VN đã phê chuẩn “Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ” (1982), vấn đề về bình đẳng giới cũng đã được quy định tại Hiến pháp (điều 63). Bên cạnh đó, VN cũng đã có một loạt hệ thống văn bản liên quan như Luật Bình đẳng giới (thông qua 2006), Nghị định quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới (7.2009)... Tuy nhiên từ thống kê cho thấy trong nhiệm kỳ XII (2007 - 2012), VN có 25,8% đại biểu Quốc hội là nữ, giảm chút ít so với mức 27,3% của nhiệm kỳ XI (2002-2007). Theo ông John Hendra, mặc dù đây là tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Quốc hội cao nhất trong các nước ASEAN nhưng tỷ lệ phụ nữ VN tham gia vào quá trình ra quyết định cấp cao trong Đảng hay Nhà nước còn thấp.
Trong tổng số 9 ủy ban của Quốc hội, chỉ có hai phụ nữ là chủ nhiệm và hiện VN chỉ có duy nhất một nữ bộ trưởng và cũng chỉ có 5/82 thứ trưởng là nữ (chiếm 7,8%). Ở cấp độ địa phương, chỉ có chưa tới 2% các HĐND tỉnh và 4% HĐND huyện có phụ nữ làm chủ tịch.
Tại một hội thảo về công tác cán bộ nữ được tổ chức hồi năm 2009, các đại biểu đã nêu ra một số nguyên nhân như định kiến “trọng nam, khinh nữ” vẫn còn tồn tại; các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ nữ cũng chưa được thể hiện đầy đủ trong các khâu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, chính sách… Một nguyên nhân khác, ít được nhắc hơn, là việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của Đảng về công tác cán bộ nữ còn nặng về hình thức. Nói đơn giản hơn thì là chính sách đã có, luật đã có nhưng hiểu và thực hiện ra sao lại là chuyện còn phải bàn dài dài.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Chiều 9-3, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm đã chủ trì cuộc làm việc của Chính phủ và Ban Thường trực Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam nhằm đánh giá kết quả thực hiện công tác phối hợp giữa Chính phủ và Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam năm 2009 và thống nhất trọng tâm công tác phối hợp năm 2010.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, hoạt động phối hợp giữa Chính phủ và MTTQ Việt Nam phải thiết thực và chặt chẽ hơn để cả Chính phủ và MTTQ Việt Nam đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Quốc hội về kinh tế - xã hội năm 2010. Năm 2010 với nhiều nhiệm vụ quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, rất cần sự đoàn kết nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, tạo sự đồng thuận cao để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, lập thành tích mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các ngày lễ lớn của đất nước và Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XI của Đảng.
Trên tinh thần này, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, đoàn thể, các địa phương cần rút kinh nghiệm để công tác phối hợp giữa Chính phủ và Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam ngày càng thiết thực, hiệu quả hơn. Cần tập trung tuyên truyền, giáo dục, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước như phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", "Ngày vì người nghèo", "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội 2010.
Năm 2010, Chính phủ và Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam chủ động phối hợp, củng cố, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó thường xuyên phối hợp thực hiện có hiệu quả các chương trình 132, 134, 135, chương trình hỗ trợ người nghèo về nhà ở và các chương trình, mục tiêu quốc gia khác để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng bị thiên tai, bão lũ.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Vietnamnet có bài Cty Hải Vinh “xù” lương: Ưu tiên giải quyết quyền lợi CN. Bài báo phản ánh: Sáng 9/3, LĐLĐ TP.HCM vừa gửi Cục Thi hành án Dân sự TP đề nghị "phối hợp" xung quanh tình hình tranh chấp tại XN II, Công ty TNHH Hải Vinh. Theo ước tính của LĐLĐ TP.HCM, sau khi đóng cửa Xí nghiệp (XN) II (huyện Hóc Môn), ông Hà Minh Hải, giám đốc Công ty TNHH Hải Vinh còn nợ 880 CN hơn 8,5 tỷ đồng lương tháng 2-2010 và tiền trợ cấp thôi việc. Bên cạnh đó, ông Hải còn nợ 500 CN XN I (quận Thủ Đức) hơn 1,3 tỷ đồng trợ cấp thôi việc.
Hiện, 880 CN tại XN II rơi vào cảnh mất việc làm trong khi đa số đều ở các tỉnh. Trong số đó, có gần 50 CN có con nhỏ, đang mang thai. Tình hình này kéo dài sẽ dẫn đến bức xúc trong CN, dễ dẫn đến manh động. Để bảo vệ lợi ích 880 CN, LĐLĐ TP đề nghị Cục Thi hành án TP ưu tiên giải quyết tiền lương, trợ cấp thôi việc cho CN trước khi kê biên tài sản công ty. Được biết, hiện ông Hải còn nợ Tập đoàn Dệt may VN hơn 17,2 tỷ đồng tiền thuê mặt bằng và cơ quan thi hành án TP đang có kế hoạch cưỡng chế thu hồi.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Điều tra viên có cần giám sát luật sư?. Bài báo phản ánh: Luật sư Phạm Văn Vui, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước, tâm sự ông nhận bào chữa cho một bị can tại huyện Phước Long, Bình Phước. Buổi sáng ở TP.HCM, ông nhận được điện thoại của điều tra viên báo 3 giờ chiều sẽ hỏi cung. Ngay lúc đó, ông phải hủy bỏ hết công việc để chạy bay về Phước Long cho kịp giờ.
Luật sư Vui nói công việc của luật sư không phải chỉ bào chữa cho một thân chủ và một nơi duy nhất mà cùng lúc phải làm nhiều việc trên nhiều địa bàn khác nhau. Chính vì vậy, khi đang công tác ở ngoài tỉnh mà nhận được tin như thế này thì luật sư chỉ biết vắt ba chân bốn cẳng lên vai mà… đua. Còn nếu không dự buổi hỏi cung thì lần sau sẽ rất khó vì điều tra viên hay chối rằng đang bận hoặc trăm ngàn lý do khác. Lúc đó thì luật sư chỉ biết khóc ròng, bởi không phối hợp với điều tra viên thì không biết khi nào mới được gặp thân chủ trong trại. Ngoài ra, khi gặp, luật sư và thân chủ cũng chỉ được “tâm sự” trong một tiếng đồng hồ (nhưng lại phải được sự cho phép của điều tra viên). Trong thời gian này thì sẽ không thể trao đổi được nhiều với thân chủ của mình. Nhiều nơi ưu ái hơn cho gặp không hạn chế nhưng đây cũng chỉ hy hữu lắm mới có. Đó là chưa kể việc làm việc ké với điều tra viên gây ra nhiều bị động khác. Ông điều tra viên ngồi kè kè ở đó, luật sư và thân chủ muốn rù rì với nhau những điều mà thân chủ có thể chỉ nói được với luật sư cũng khó. Thực chất có những việc rất hợp lý nhưng có người thứ ba thì không thể mở miệng bật mí với nhau được.
Theo quy định, trong giai đoạn điều tra, việc có mặt của điều tra viên là điều tất yếu. Tuy nhiên, theo nhiều luật sư, việc luật sư tiếp xúc với thân chủ đang bị tạm giam ở giai đoạn kết thúc điều tra không nhất thiết phải có mặt, hoặc cần sự cho phép của cơ quan điều tra. Tâm lý chung của bị can, bị cáo khi tiếp xúc với luật sư mà có mặt điều tra viên thì họ thường rất thất vọng. Họ thường tâm sự với luật sư rằng họ không được tự do trao đổi, trình bày. Bản thân luật sư muốn hướng dẫn chi tiết cho bị can, bị cáo những nội dung cần trình bày thì cũng dè dặt, ngại cơ quan tiến hành tố tụng biết trước sẽ đối phó hoặc hợp thức hóa lại chứng cứ, hồ sơ. Chính vì tình trạng này, luật sư được phép hỏi thân chủ thì cũng chỉ hỏi thăm đôi ba điều về sức khỏe hoặc có muốn nhắn nhủ gì về cho gia đình hay không… Đây cũng là một nguyên nhân lý giải cho việc các bị cáo khi ra tòa thường phản cung vì cho rằng cơ quan điều tra đã ép cung mình.
Một số ý kiến cho rằng có mặt điều tra viên để hạn chế tình trạng luật sư mớm cung cho thân chủ nhằm khai báo không trung thực hoặc cố tình chối tội… Tuy nhiên, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre, lại không đồng tình: “giai đoạn điều tra là cả một quá trình thu thập bằng chứng, nhân chứng và rất nhiều thứ khác chứ không thể chỉ dựa vào duy nhất lời khai của nghi can, bị can. Vì vậy, luật sư trao đổi với thân chủ sẽ giúp sự việc sáng tỏ dễ dàng hơn”. Nhiều luật sư nhấn mạnh thêm rằng luật sư cũng có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp của mình. Vì xúi giục thân chủ của mình khai báo không đúng sự thật thì gián tiếp tiếp tay cho thân chủ làm hại người bị hại. Mặc dù phải thừa nhận rằng có một số trường hợp luật sư đã mớm cung cho thân chủ để khai báo không đúng sự thật. Tuy nhiên, đây chỉ là những trường hợp cá biệt và nếu được phát hiện thì hầu hết các đoàn luật sư kiên quyết khai trừ khỏi đoàn luật sư của mình.
3. Báo Nhân dân có bài Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Bài báo phản ánh: Ngày 9-3, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo sơ kết triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48 - NQ/T.Ư (NQ 48) của Ủy ban Thường vụ QH về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 tổ chức Hội nghị đánh giá tình hình triển khai sơ kết trong thời gian qua. Ðồng chí Uông Chu Lưu, Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch QH chủ trì Hội nghị.
Nhiều đại biểu đại diện Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH; các cơ quan của Ủy ban Thường vụ QH; một số bộ, cơ quan ngang bộ; Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam... đã tham gia đóng góp ý kiến; đề cập các nội dung chung quanh định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân...
Phát biểu ý kiến tại Hội nghị, Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu nêu rõ: Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp và chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện... Mục tiêu của việc sơ kết nhằm đánh giá khách quan và đúng đắn kết quả thực hiện những định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo Nghị quyết số 48 - NQ/T.Ư. Trên cơ sở đó, xác định nhu cầu và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật giai đoạn 2011 - 2020, góp phần phục vụ việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH nhiệm kỳ XIII và XIV.
4. Trang web Tuanvietnam.net có bài Lãi suất và rủi ro pháp lý. Bài báo phản ánh: Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Xung quanh câu chuyện lãi suất, đồng tiền "vào" và đồng tiền "ra" qua cửa ngân hàng đang đang được bàn tán sôi nổi. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin đăng tải ý kiến kể hiện góc nhìn riêng của tác giả Thuận Hải. Mời quý vị độc giả cho ý kiến.
Với chủ các ngân hàng và doanh nghiệp, đây là quyết định không thể không hợp thức hóa hoạt động thực tiễn lâu nay của họ, giúp khơi thông nguồn vốn đã có dấu hiệu tồn đọng và phát sinh những khoản chi phí khi giao dịch mà không thể đưa vào sổ sách kế toán. Với một số ý kiến chuyên gia nhìn bằng lăng kính pháp lý hiện hành và những doanh nghiệp đang họat động chủ yếu bằng nguồn vốn vay, mà không thể huy động vốn bằng các nguồn khác, thì mức lãi suất mà họ có thể thỏa thuận hiện nay chắc chắn sẽ phạm Luật dân sự vì đã phải chấp thuận mức lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản (8%/năm) mà Ngân hàng Nhà nước công bố. Giữa những luồng ý kiến băn khoăn ấy, những thông tin về các vụ giật hụi, chủ nợ cho vay nặng lãi, doanh nghiệp đút lót cả chục tỷ đồng cho quan chức Ngân hàng để nhận được khoăn vay theo lãi suất quy định của pháp luật vẫn rộn ràng khắp nơi.
Ngoài vụ bị bắt quả tang như ở BIDV, dường như các vụ tranh chấp vay nợ theo lãi suất thỏa thuận nặng lãi bên ngoài không có dấu hiệu sẽ được giải quyết bằng thủ tục pháp lý bởi các cơ quan công quyền với lý do con nợ và chủ nợ tự thỏa thuận cách giải quyết với lý do "hành vi thỏa thuận nợ không được chính quyền công nhận, bất hợp pháp ngay từ khi nó phát sinh". Hơn nữa, cần tách bạch hợp đồng tín dụng của các pháp nhân là ngân hàng thương mại với những thỏa thuận dân sự giữa các thể nhân là công dân có năng lực pháp lý và khả năng chịu trách nhiệm pháp luật về hành vi trong cuộc sống hàng ngày. Có như vậy, việc lãi suất ngân hàng vượt ngưỡng 150% lãi suất cơ bản có được coi là hoạt động vi phạm pháp pháp luật hay không hay cơ chế nào để giải quyết những vụ trốn nợ, giật hụi đây đó đang xảy ra.
Hoạt động ngân hàng là hợp đồng kinh tế, được đỉều chỉnh bằng các văn bản pháp lý Luật kinh tế, được phán xử tại Tòa kinh tế. Hoặc hành vi bằng các thủ đọan không trung thực để lừa gạt, dụ dỗ, cưỡng bức để bắt một người phải nhận nợ với lãi suất cao; hoặc một người đưa ra cam kết trả lãi suất cao mà không có bằng chứng cho thấy họ có năng lực và khả năng nâng cao giá trị khỏan vay để lấy tiền của người cho vay, là những dấu hiệu vi phạm đạo đức và pháp luật ngay khi bắt đầu thực hiện hành vi bởi động cơ không trung thực. Hành vi đó không thuộc hình thức hợp đồng kinh tế mà phải được coi là dấu hiệu của tội lừa đảo và phải được điều chỉnh bởi luật Dân sự, Luật hình sự. Ngân hàng như một Nhà máy mà "đầu vào" cũng như "đầu ra" đều là giá trị tiền. Hoạt động ngân hàng không đơn thuần là nhận tiền gửi rồi lại mang số lượng tiền ấy cho vay để nghiễm nhiên hưởng chênh lệch lãi suất.
Thực tế, có hẳn một Học viện Ngân hàng, nhiều thạc sỹ và tiến sỹ về họat đông ngân hàng trong và ngoài nước đang làm việc trong các tổ chức tín dụng này. Vậy thì, giữa đồng tiền "vào" và đồng tiền "ra" qua cửa ngân hàng chắc hẳn nó phải được xử lý, nó phải được phân tích để ra kết quả về mức lãi suất "vào" và khả năng rủi ro khi cho nó "ra". Nhân lực ngân hàng phải xử lý các đầu đề bài toán đó và cho ra kết quả tối ưu bảo đảm lãi suất đủ thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội và dòng tiền ra phát huy hiệu quả cho chủ đầu tư và có tỷ suất cao quay trở lại khi đến hạn. Một hoạt động có kết tinh chất xám như thế trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt với các đối thủ không chỉ trong nước mà trong tương lai gần cả với các ngân hàng nước ngoài thì không thể quan niệm và kết luận rằng hoạt động ấy đơn thuần chỉ mang tính cơ học. Đặc biệt, việc đánh giá rủi ro khi quyết định cho vay của Ngân hàng thực sự là một khoa học đòi hỏi các nhân viên có đạo đức nghề nghiệm vững, trình độ học vấn cao, kinh nghiệm thực tiễn phong phú...
Mọi đánh giá sai đều dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng cho nguồn vốn của chủ ngân hàng và đánh đổi bằng hiệu quả của rất nhiều dự án khác mới bù đắp được. "Mười đấm có lãi không bằng một cú đạp nợ khó đòi" - đó là câu dằn lòng của các cán bộ tín dụng. Ngân hàng không thể tự ý áp đặt lãi suất cả đầu ra lẫn đầu vào vì còn các đối thủ cùng ngành trong và ngoài nước cạnh tranh. Người vay cũng không buộc phải chấp thuận bất cứ lãi suất nào nếu như chi phí vốn không bù đắp được sự sụt giảm doanh thu và không có lãi, họ còn có quyền chọn ngân hàng để vay và cả cơ chế thỏa thuận trực tiếp bằng uy tín thương hiệu và độ tín nhiệm với ngân hàng.
Khi hoạt động của nền kinh tế phải chịu mức chi phí vốn đầu vào cao hơn mặt bằng trước đó thì cũng là động lực buộc các chủ đầu tư và doanh nghiệp vay vốn phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay bằng áp dụng công nghệ tiên tiến, bằng cải tiến quản lý nâng cao năng suất và bằng các biện pháp tổng hợp khác để tồn tại và phát triển. Ngược lại, hoạt động cho vay nặng lãi hầu như là các hoạt động giữa các cá nhân, không được pháp luật công nhận và bảo vệ khi có tranh chấp. Dó đó, cả hai phía: bên cho vay và bên nhận nợ đều vi phạm Luật dân sự và Luật hình sự ngay từ khi phát sinh giao dịch. Và hầu như, các thể nhân tham gia giao dịch trong hoạt động này không đủ kiến thức đánh giá, nghiên cứu nhu cầu và khả năng hòan trả vốn trong các giao dịch này - ít nhất là từ phía người nhận nợ.
Vì thế, nên coi hoạt động ngân hàng là việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và được điều chỉnh bằng các văn bản pháp quy về Kinh tế. Lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước không phải chỉ đóng vai trò là khống chế trần lãi vay như quan niệm phổ biến mà còn đóng vai trò trong việc bày tỏ thái độ của Nhà nước về cung tiền, xu hướng điều chỉnh chính sách vĩ mô, quy định lãi suất của các nghiệp vụ tài chính khác: lãi suất tái cấp vốn, vay qua đêm, trái phiếu... Đừng vì cách hiểu cứng nhắc và không đầy đủ về lãi suẩt cơ bản để làm ách tắc luồng lưu chuyển của tiền tệ trong nền kinh tế. Cơ thể của nền kinh tế sẽ yếu và suy kiệt nếu như dòng huyết mạch của nó là luồng tiền bị nghẽn mạch.