Điểm tin báo chí sáng ngày 28 tháng 6 năm 2013

28/06/2013
Trong ngày 27/6 và đầu giờ sáng ngày 28/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang VietnamPlus đưa tin "Công chứng không phải là một thủ tục hành chính". Bài báo phản ánh: Thông cáo báo chí về hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực do Bộ Tư pháp phát hành ngày 27/6 khẳng định công chứng không phải là một thủ tục hành chính.

Thông cáo nhằm cung cấp thêm thông tin, giúp người dân phân định rõ hơn hoạt động công chứng và chứng thực.

Theo Luật Công chứng và Nghị định 79/2007/NĐ-CP quy định hoạt động công chứng và chứng thực là hai hoạt động có nội dung, bản chất khác nhau, được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau.

“Công chứng là hoạt động bổ trợ tư pháp - một loại hình dịch vụ công nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên giao dịch, chứ không phải là một thủ tục hành chính,” người phát ngôn, Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp Trần Tiến Dũng khẳng định.

Hoạt động công chứng do các công chứng viên hành nghề tại các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Còn chứng thực là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng thực, xác thực tính chính xác, có thực của giấy tờ, văn bản, chữ ký của cá nhân cũng như xác thực các sự kiện pháp lý, thông tin cá nhân khác để đáp ứng yêu cầu của người dân khi tham gia quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính...

Ông Trần Tiến Dũng cũng cho rằng “hoạt động công chứng là rất cần thiết và ngày càng khẳng định vai trò trong đời sống xã hội, không chỉ ở Việt Nam và ở hầu hết các nước. Qua 6 năm thi hành Luật Công chứng và Nghị định 79/2007 đã mang lại những hiệu ứng tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân, bảo đảm tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí.”

Tuy nhiên, “do xuất phát từ thói quen “ưa giấy tờ” nên hiện tượng lạm dụng bản sao của các cơ quan tổ chức và cá nhân vẫn xảy ra cũng như nhận thức hạn chế của người dân về thủ tục chứng thực, ở một số địa phương vẫn còn hiện tượng “cò” chứng thực, gây phiền hà cho người dân,” ông Dũng thừa nhận đây là thực tế “khó tránh khỏi.”

Khắc phục tồn tại này và những vấn đề còn vướng mắc trong hoạt động công chứng, chứng thực, dự án Luật Chứng thực và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng đang trong quá trình soạn thảo để tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất điều chỉnh lĩnh vực công chứng và chứng thực hình thành cơ sở pháp lý ổn định để đảm bảo an toàn pháp lý và bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền, lợi ích của người dân, tổ chức khi tham gia hợp đồng giao dịch và thưc hiện thủ tục hành chính.

Bên cạnh đó, quy định về chứng thực chữ ký của người dịch dẫn đến tình trạng “chỉ chứng thực chữ ký của người dịch chứ không chịu trách nhiệm về nội dung bản dịch” trong khi chưa có văn bản pháp lý điều chỉnh việc quản lý đội ngũ dịch thuật nên khó quản lý chất lượng bản dịch. Vì thế, Bộ Tư pháp cũng đang hoàn thiện dự thảo Nghị định về hoạt động dịch thuật trong lĩnh vực chứng thực (dự kiến sẽ được trình Chính phủ xem xét thông qua vào tháng 7).

Nghị định này được ban hành sẽ “góp phần quan trọng vào việc quản lý đội ngũ người dịch trong lĩnh vực chứng thực tại Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, đảm bảo trật tự quản lý hành chính, an toàn lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Xử lý tài sản bảo đảm đã “vướng“ lại… “thiếu“ đủ đường. Bài báo phản ánh: Việc giải quyết nợ xấu của hệ thống tín dụng nói riêng và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) nói chung đang gặp nhiều rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý và hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý TSBĐ…

Đã lâu rồi, các tổ chức tín dụng đã phải “sống” cùng nỗi lo đó. Theo các chuyên gia pháp lý, pháp luật hiện hành chưa thiết lập được hành lang pháp lý an toàn và cần thiết để bên nhận bảo đảm được chủ động xử lý TSBĐ trên cơ sở các hợp đồng bảo đảm đã được giao kết hợp pháp, thực hiện quyền thu hồi TSBĐ để xử lý cũng như thu giữ TSBĐ. Và mặc dù có liên quan đến nhiều qui định pháp luật ở nhiều lĩnh vực nhưng hoạt động xử lý TSBĐ vẫn cứ “đơn thương độc mã” mà không có được sự hỗ trợ cần thiết và đầy đủ…

Theo ông Hồ Quang Huy (Phó Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (GDBĐ) – Bộ Tư pháp), một trong những nguyên nhân khiến TSBĐ nhiều khi “mất giá trị” là thủ tục xử lý TSBĐ bằng con đường Tòa án ở Việt Nam còn phức tạp, mất nhiều thời gian (có thể kéo dài đến 02 năm, đó là chưa tính thời gian thực hiện những thủ tục, công việc “chuẩn bị” và với giả thiết việc thi hành án, bán đấu giá tài sản diễn ra suôn sẻ…), đã gây thiệt hại đáng kể, làm phát sinh rất nhiều công sức, chi phí của bên nhận bảo đảm, làm chậm thời gian khắc phục rủi ro, thu hồi vốn để tái đầu tư phục vụ cho chính bên nhận bảo đảm và nhu cầu của xã hội...

Ngay cả khi các tổ chức tín dụng muốn tự xử lý TSBĐ thì khó nhất lại bắt đầu từ khâu thu giữ TSBĐ “do thiếu qui định về thu giữ TSBĐ là động sản” - ông Nguyễn Văn Phương (Trưởng phòng xử lý thu hồi nợ - Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt nam (VCB) than thở. Còn nếu bên bảo đảm có dấu hiệu chống đối, gây cản trở cho việc thu giữ TSBĐ thì tổ chức tín dụng cũng “không trông chờ được vào ai” khi các cơ quan chức năng vẫn có biểu hiện “né tránh” vì quan ngại đến trách nhiệm hoặc vì lý do khác… trong khi pháp luật về GDBĐ có đề cập đến trách nhiệm hỗ trợ của họ.

Trao đổi về cơ hội, thách thức trong các giao dịch cấp tín dụng có bảo đảm bằng quyền đòi nợ và hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, GS.Xuân Thảo Nguyễn (Trường Luật Dedman, Đại học SMU - Mỹ) nhận thấy, khi phạm vi những TSBĐ ngày càng được mở rộng sẽ đặt ra yêu cầu cho các nhà lập pháp phải đơn giản hóa qui trình xác lập quyền của chủ nợ có bảo đảm và hiệu lực đối kháng của GDBĐ đối với người thứ 3 để giảm gánh nặng cho các chủ nợ có bảo đảm, thúc đẩy các GDBĐ ngày càng phát triển.

Có thể thông qua việc mở rộng điều kiện để một GDBĐ xác lập hiệu lực giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm theo hướng bên bảo đảm có quyền đối với TSBĐ (không nhất thiết là quyền sở hữu) thì có thể sử dụng quyền đó để thực hiện giao dịch có bảo đảm bằng tài sản đó.

Nhằm giúp các tổ chức tín dụng nhanh chóng thu hồi nợ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm trong sự hài hòa lợi ích của các bên khác có quyền và lợi ích liên quan, trong thời gian tới, đại điện nhiều tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức tín dụng đều cho rằng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật GDBĐ, đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến việc xử lý TSBĐ, đặc biệt là thủ tục bán đấu giá tài sản, loại bỏ các quy định mang tính hành chính, can thiệp sâu vào quá trình xử lý TSBĐ nhưng vẫn phải có cơ chế để tạo điều kiện cho bên nhận bảo đảm dễ dàng tiếp cận với TSBĐ, nhanh chóng xử lý TSBĐ để thu hồi nợ...

3. Báo Quân đội nhân dân có bài Bộ Tư pháp “tuýt còi” thông tư có quy định về “tạm ngừng xuất khẩu”. Bài báo phản ánh: Ngày 27-6, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) gửi công văn tới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để chỉ ra những nội dung trái pháp luật của Thông tư số 55/2011/TT-BNNPTNT. Theo đó, tại Điểm b-Khoản 1-Điều 31 Thông tư này quy định: “Tạm ngừng xuất khẩu vào các nước nhập khẩu tương ứng nếu… Cơ sở có quá 3 lô hàng cùng nhóm sản phẩm tương tự trong 6 tháng bị cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo về chất lượng, an toàn thực phẩm”. Tuy nhiên, đối chiếu với các quy định của Luật An toàn thực phẩm và các văn bản hiện hành, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định, không có nội dung nào quy định cho phép áp dụng biện pháp “tạm ngừng xuất khẩu” khi có cảnh báo về an toàn thực phẩm như quy định này.

Từ nhận định trên, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tự kiểm tra, xử lý hủy bỏ nội dung trái pháp luật của Thông tư 55.

4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Thực hiện “Năm kỷ cương hành chính”- Kỳ 2: Vẫn còn “loay hoay” vì các quy định “tréo ngoe”. Bài báo phản ánh: Tiếp xúc với nhiều người dân đi làm TTHC, chúng tôi ghi nhận không ít người tỏ ra bức xúc vì các qui định “tréo ngoe” của các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.

Qui định về thẩm quyền chứng thực bản sao song ngữ trong những năm gần đây cho thấy các cơ quan chức năng khá “loay hoay” nhưng vẫn chưa có giải pháp hiệu quả. Từ việc khắc phục vấn đề “quên” qui định cơ quan nào chứng thực bản sao song ngữ của Nghị định 79/2007/NĐ-CP bằng Thông tư 03/2008/TT-BTP, mới đây, Nghị định 04/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 79/CP đã bổ sung thẩm quyền cho Phòng Tư pháp, nhưng lại không quy định cụ thể về văn bản song ngữ và “có tính chất song ngữ”. Dẫn đến, nhiều xã, phường đã từ chối chứng thực bất kỳ văn bản nào có song ngữ vì cho rằng không thuộc thẩm quyền của mình và hướng dẫn người dân đến UBND quận, huyện để làm. Còn người dân, sau một thời gian quen với việc có thể đến xã hoặc phường để chứng thực văn bản “có tính chất song ngữ”, đến quận, huyện để chứng thực văn bản song ngữ và “phần lớn là song ngữ” nay lại bắt buộc phải đến quận, huyện mới chứng thực được đã không tránh khỏi phàn nàn...

Hay qui định tờ khai để làm khai sinh cho trẻ phải có chữ ký của cả cha lẫn mẹ mới đây tuy sẽ khắc phục được tình trạng xin cải chính hộ tịch sau này vì “cha mẹ chưa thống nhất khi đặt tên con”, nhưng cũng tạo ra “phiền toái” cho người dân trong trường hợp người cha đi công tác xa, không kịp về, và phải khai sinh cho con quá hạn. Việc này, có nơi “linh động” cho người mẹ làm cam kết người cha đã đồng ý với các nội dung khai sinh, nhưng cũng có nơi bắt buộc chờ.

Theo Nghị định 79/2009/NĐ-CP thì người xin chứng thực chữ ký phải ký trước mặt người chứng thực. Tuy nhiên, điều này lại “vênh”  với cơ chế “một cửa” là cán bộ chuyên môn không được trực tiếp nhận hồ sơ chứng thực của dân, người dân nộp hồ sơ qua “một cửa”. Mà cán bộ “một cửa” thì không thể làm thủ tục chứng thực được, nên người dân phải nộp hồ sơ ở “một cửa”, sau đó đến “một cửa” khác gặp người chứng thực để ký, rồi quay lại “một cửa” để nhận kết quả. Thành ra, người dân phải đến “hai cửa” mới xong việc, còn cán bộ thì cũng “bó tay” bởi nếu làm theo Nghị định 79 thì trái với cơ chế "một cửa", còn thực hiện đúng theo "một cửa" thì lại không đúng với Nghị định 79!

Theo PGĐ Sở Tư pháp Hà Nội Phạm Xuân Phương, không riêng thủ tục chứng thực chữ ký, mà cả thủ tục về hộ tịch như đăng ký kết hôn cũng vướng - người xin đăng ký kết hôn sẽ ký trước mặt cán bộ chuyên môn hay cán bộ “một cửa”? Tuy nhiên, để thực hiện chỉ đạo của TP, ông Phương cho biết, đã thống nhất thực hiện theo cơ chế “một cửa”, và bộ phận “một cửa” sẽ giúp phòng chuyên môn có “cách kiểm soát” việc ký là chính xác.

Đây cũng là vướng mắc tương tự trong việc thực hiện cơ chế “một cửa” để giải quyết TTHC về đất đai. Theo qui định của ngành TN-MT thì hồ sơ giải quyết TTHC về đất đai do Văn phòng đăng ký đất và nhà tiếp nhận, trả kết quả, nhưng theo qui định của cơ chế “một cửa” thì tất cả hồ sơ hành chính phải nhận-trả qua bộ phận “một cửa” của UBND. Khổ nỗi, thủ tục về đất đai khá phức tạp, cán bộ bộ phận “một cửa” không phải ai cũng đủ “chuyên môn” để biết hồ sơ của người dân hợp lệ hay không. Ông Nguyễn Văn Hậu, GĐ Sở TN&MT cho biết, việc nhận hồ sơ về đất đai có sự “vận dụng”, có nơi nhận hồ sơ qua Phòng TN-MT, qua Văn phòng đăng ký nhà đất, hoặc cử cán bộ chuyên môn ngồi tại “một cửa” để nhận hồ sơ. Còn qua việc kiểm tra công vụ, lại có tình trạng nhiều nơi áp dụng “nửa nọ, nửa kia” là cán bộ “một cửa” nhận hồ sơ, nhưng cán bộ chuyên môn trực tiếp liên lạc để hướng dẫn người dân bổ sung.  Bên cạnh đó, với các giao dịch về bất động sản, Bộ Tư pháp muốn tất cả các giao dịch này phải qua công chứng, nhưng Bộ TN-MT lại cho rằng, người dân có thể lựa chọn công chứng hoặc không…

Theo quy định của Nghị định 158/2008/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch thì việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi đã được đăng ký, nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng ký lại. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp dù không mất bản chính giấy khai sinh gốc nhưng vẫn xin đăng ký lại (thường là những người sinh từ những năm 1980 trở về trước, đến nay hầu như sổ hộ tịch gốc lưu tại cơ quan có thẩm quyền không còn) để lợi dụng sửa ngày tháng năm sinh nhằm “trẻ hóa” độ tuổi, hoặc muốn khai lại các dữ liệu khác như họ, tên chữ đệm, dân tộc, quê quán… phục vụ các mục đích cá nhân.

Những tồn tại trên cho thấy, giữa qui định pháp luật và thực tiễn áp dụng cơ chế “một cửa” để giải quyết TTHC đang có những “bất đồng” mà nếu không sửa sớm thì chính cán bộ “một cửa” và cán bộ chuyên môn cũng không biết áp dụng thế nào cho đúng, và điều này sẽ phần nào ảnh hưởng đến việc cải cách hành chính.   

II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Mấy ai có trên hai nhà để lách thuế?. Bài báo phản ánh: “Không thể vì được việc cho mình mà gây bất lợi cho người khác”; “Phải có cách quản lý đúng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho số đông”… Nhiều bạn đọc đã đề nghị như vậy sau khi Pháp Luật TP.HCM đăng hai bài phản ánh một số điểm bất hợp lý của hai dự thảo nghị định và thông tư hướng dẫn Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Nếu Bộ Tài chính thấy tình hình thực tế có lách luật nhiều quá, chính sách bị lợi dụng, quy định có kẽ hở thì sao Bộ không trình Quốc hội sửa Luật Thuế TNCN để khắc phục? Làm như vậy mới hợp pháp và đúng trình tự, còn tùy ý đưa thêm điều kiện hưởng miễn thuế vào nghị định, thông tư hướng dẫn là sai!

Dân ta còn nghèo, nhiều người không có căn nhà riêng nào, một phần có được một căn nhà đã là khá, thử hỏi có mấy ai có trên hai, ba căn nhà để mà tính chuyện tặng, cho người thân để chuyển nhượng và lách thuế? Thử hỏi có mấy ai có nhà to, đất rộng để mà chia ra chuyển nhượng nhiều phần, nhiều lần?

Bộ Tài chính chăm chăm “tránh lách thuế” ở người giàu mà quên là sẽ gây khó khăn chồng chất cho hàng bao nhiêu người nghèo

Cơ quan quản lý suy diễn là A có hai căn nhà, muốn bán cho B một căn nên tìm cách tặng căn nhà cho C là người thân (được miễn thuế TNCN), sau đó C bán nhà cho B, vì là căn nhà duy nhất của C nên cũng miễn thuế TNCN. Nhưng đâu phải người nào có hai, ba nhà cũng nghĩ cách tránh thuế. Cơ quan quản lý cũng phải thấy rằng việc làm đó cũng có rủi ro cho chính bản thân A, lỡ như C sau khi nhận căn nhà thì lấy luôn, không chịu bán cho B thì sao? Người giàu chấp nhận rủi ro để “đi đường vòng”, nếu Bộ Tài chính chặn đường vòng, người giàu vẫn có đường khác để đi, chỉ có người nghèo là chịu thiệt (Nguyễn Phương Vy, Quận 11, TP.HCM).

Tôi còn nhớ trước đây từng xảy ra trường hợp những người được cấp nhà tình nghĩa bán nhà ngay sau khi nhận nhà. Ngại việc này có thể làm ảnh hưởng đến chính sách nhân đạo của Nhà nước, chính quyền đã ra quy định khống chế đại loại phải được sở hữu nhà bao nhiêu lâu thì mới được bán. Rồi có thời gian vì muốn hạn chế xe cá nhân, chính quyền chỉ cho phép một người đứng tên mua một xe máy… Tất cả ràng buộc này đều trái với Bộ luật Dân sự về quyền sở hữu tài sản của cá nhân nên chỉ sau một thời gian ngắn đã bị bãi bỏ.

Giờ lại có những con số mà người đưa ra cũng đang nhắm tới cái gọi là lợi ích công là chống trốn thuế. Đó là con số 183 ngày sở hữu nhà, là con số một căn nhà hay một thửa đất chứ không được ít hơn mà người sở hữu, sử dụng nhà đất buộc phải tuân thủ nếu muốn bán nhà nhằm giúp Nhà nước kiểm soát được nguồn thu từ thuế. Rất dễ nhận thấy các con số này cũng “phạm quy” tương tự, vậy có nên để chúng ra đời hay phải hủy bỏ ngay từ lúc còn là dự thảo để không gây hại cho bất kỳ ai và kế đó là không làm mất uy tín của các cơ quan có thẩm quyền ký ban hành?

Tôi rất mong Bộ Tư pháp kịp thời “can thiệp” trong trường hợp này để tránh những hệ lụy có thể nhìn thấy trước (Thúy Hằng, Quận 1).



File đính kèm