Điểm tin báo chí sáng ngày 26 tháng 6 năm 2013

26/06/2013
Trong ngày 25/6 và đầu giờ sáng ngày 26/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang VietnamPlus đưa tin Chín Luật sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2013. Từ ngày 1/7/2013, 9 Luật sẽ có hiệu lực thi hành, gồm Luật Thủ đô; Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật Dự trữ Quốc gia; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư; Luật Hợp tác xã; Luật Xuất bản.

2. Báo Người cao tuổi có bài Huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương: Cấp GCNQSDĐ trái pháp luật cần phải thu hồi. Bài báo phản ánh: Vợ chồng ông Hồ Văn Tiến và bà Phạm Thị Huệ ở thôn Mỹ Trạch, xã Bình Minh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương mấy năm nay liên tục có đơn khiếu nại gửi các cơ quan có thẩm quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án huyện Bình Giang thực hiện nghiêm túc bản án dân sự số 01/2010/DSST ngày 3/12/2010 của TAND huyện Bình Giang nhằm buộc vợ chồng ông Vũ Xuân Vụ - bà Nguyễn Thị Ngoãn trả lại quyền sử dụng 85,9m2 đất, thửa F95, tờ bản đồ số 3 (thuộc khu chợ Phủ thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang) cho vợ chồng ông Hồ Văn Tiến và bà Phạm Thị Huệ. Năm 2009, vợ chồng ông Vũ Xuân Vụ và bà Nguyễn Thị Ngoãn vay của ông Tiến, bà Huệ 300 triệu đồng) lãi suất 1,5%/tháng có giấy cam kết: “Nếu không trả được thì ông Vụ, bà Ngoãn có trách nhiệm chuyển nhượng lại cho ông Tiến, bà Huệ QSDĐ diện tích 85,9m2 nói trên”. Mảnh đất này của ông Vụ, bà Ngoãn đã được UBND huyện Bình Giang cấp GCNQSDĐ số 2755 ngày 28/5/52008.

Sau khi hết hạn trả nợ, vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn không giữ lời hứa trong bản cam kết, chây ỳ không trả tiền, không chuyển nhượng lại đất cho ông Tiến, bà Huệ. Quá bức xúc vì bị vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn lừa gạt, vợ chồng ông Tiến, bà Huệ báo cáo UBND xã Thái Học. UBND xã Thái Học hai lần tổ chức hòa giải do các ông Vũ Hồng Tâm và Đỗ Văn Chiến, Phó Chủ tịch UBND xã chủ trì vào các ngày 13/8/2010 và ngày 19/8/2010. Do vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn cố tình nại ra nhiều lí do không xác đáng nên hai cuộc họp này không đạt kết quả.

Quá bức xúc, vợ chồng ông Tiến, bà Huệ buộc phải đưa vụ việc ra TAND huyện Bình Giang. Tại hai bản án sơ thẩm số 01/2010-DSST ngày 3/12/2010 và số 01/2011DSST ngày 24/3/2011, TAND huyện Bình Giang tuyên buộc vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn phải có trách nhiệm trả nợ cho vợ chồng ông Hồ Văn Tiến, Phạm Thị Huệ số tiền 354 triệu đồng cùng lãi suất do chậm thi hành án. Bản án cũng tuyên buộc ông bà Vũ Xuân Vụ, Nguyễn Thị Ngoãn phải trả cho người có quyền lợi liên quan là vợ chồng ông Nguyễn Văn Hảo và bà Hồ Thị Sáu 110.281.100 đồng cùng lãi suất chậm thi hành án.

Lãnh đạo xã Thái Học biết rất rõ mâu thuẫn và tranh chấp mảnh đất 85,9m2 do vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn cố tình không thi hành án, nhưng khi biết ngày 17/1/2011, vợ chồng ông Vụ, bà Ngoãn làm hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nói trên cho các ông Lê Lương Dương và Vũ Văn Chiến là vi phạm pháp luật (vì đất đang tranh chấp) và trốn tránh trách nhiệm thi hành án, nhưng ông Vũ Đức Phong, Phó Chủ tịch UBND xã Thái Học vẫn chứng thực vào hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ trái phép cho ông Vụ, bà Ngoãn. Dựa vào chứng thực đó của ông Vũ Đức Phong, ngày 11/2/2011 UBND huyện Bình Giang đã cấp GCNQSDĐ thửa đất 85,9m2 nói trên cho hai ông Lê Lương Dương và Vũ Văn Chiến, có hộ khẩu thường trú tại xã Thái Học. Ông Phạm Văn Thao, cán bộ địa chính xã Thái Học biết rõ 85,9m2 của ông Vụ, bà Ngoãn đang là đối tượng tranh chấp để trả nợ cho bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Bình Giang đã tuyên vẫn tham mưu, thuyết phục để lãnh đạo xã Thái Học xác nhận vào bản hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ nói trên!

Để bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Bình Giang được thi hành đúng pháp luật, trả lại quyền lợi cho vợ chồng các ông bà Hồ Văn Tiến, Phạm Thị Huệ và Nguyễn Văn Hảo, Hồ Thị Sáu, đề nghị UBND huyện Bình Giang thu hồi lại GCNQSDĐ đã cấp cho ông Lê Lương Dương và Vũ Văn Chiến. Công văn số 194/TB-CTHA ngày 6/2/2013 gửi các hộ ông Tiến, bà Huệ và hộ ông Hảo, bà Sáu, Cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh Hải Dương khẳng định: Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Giang chỉ có thể kê biên khi UBND huyện Bình Giang thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho ông Vũ Văn Chiến và Lê Lương Dương”.

3. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Đề xuất bỏ quy định cấm kết hôn đồng giới. Bộ Tư pháp vừa công bố để lấy ý kiến rộng rãi về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong đó, Bộ đề xuất 2 phương án liên quan đến kết hôn đồng giới: Một phương án giữ nguyên quy định cấm kết hôn đồng giới; phương án khác đề xuất bãi bỏ quy định về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.

Theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, những trường hợp cấm kết hôn bao gồm: 1- Người đang có vợ hoặc có chồng; 2- Người mất năng lực hành vi dân sự; 3- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; 4- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; 5- Giữa những người cùng giới tính.

Bộ Tư pháp cho biết, về kết hôn giữa những người cùng giới hiện còn có 2 ý kiến khác nhau.

Ý kiến thứ nhất cho rằng, trong giai đoạn hiện nay Nhà nước ta chưa nên thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng trong Luật Hôn nhân và gia đình cần phải có các quy định để một mặt góp phần ngăn ngừa thái độ kỳ thị đối với những người cùng giới tính, mặt khác, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các quan hệ về tài sản và con (nếu có) trong trường hợp họ sống chung với nhau như vợ chồng.

Ý kiến này xuất phát từ lý do vấn đề hôn nhân đồng giới là vấn đề nhạy cảm. Do đó, việc luật hóa hôn nhân giữa những người cùng giới tính cũng cần phải được xem xét, cân nhắc, nhìn nhận trên nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt là phải có lộ trình, bước đi phù hợp. Trong bối cảnh quốc tế và trong nước hiện nay, bước đi phù hợp nhất của pháp luật Việt Nam là Nhà nước ta không nên can thiệp hành chính vào quyền được sống theo bản dạng giới, khuynh hướng tính dục của người đồng tính; cần tôn trọng việc sống chung như vợ chồng của họ cũng như các thỏa thuận của họ trong việc xác lập và giải quyết các vấn đề phát sinh từ cuộc sống chung của họ; đồng thời cần có những quy định pháp luật thích hợp để giúp họ giải quyết một cách ổn thỏa các hậu quả pháp lý của việc sống chung này nhằm góp phần bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự và sự ổn định của các quan hệ xã hội.

Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước cũng giải quyết vấn đề này một cách có lộ trình, tức là trước hết, Nhà nước thừa nhận quyền chung sống như vợ chồng của người đồng tính rồi sau đó mới có quy định về thừa nhận hôn nhân giữa những người này. Ví dụ: Hà Lan quy định về việc đăng ký kết hợp dân sự giữa những người cùng giới tính vào năm 1998, nhưng đến năm 2001 mới thừa nhận chính thức hôn nhân hợp pháp giữa người cùng giới; Canada thừa nhận quyền chung sống của người đồng tính vào năm 1999, đến năm 2005 mới được thừa nhận quyền hôn nhân giữa họ với nhau; Cộng hòa Pháp thừa nhận quyền chung sống của người đồng tính từ năm 1999 và đến năm 2013 mới thừa nhận hôn nhân đồng giới... Tại châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ không thừa nhận hôn nhân đồng tính, nhưng đã hợp pháp hóa quan hệ đồng tính vào năm 1997 (Trung Quốc), 2009 (Ấn Độ).

Ý kiến thứ hai lại cho rằng, quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới tính là không phù hợp với chức năng xã hội của hôn nhân cũng như với quan niệm truyền thống về hôn nhân và gia đình ở nước ta. Do đó, cần tiếp tục duy trì quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính như quy định hiện hành.

Bộ Tư pháp cho biết, Bộ đồng ý với ý kiến thứ nhất và tại dự thảo Luật đã đề xuất bãi bỏ khoản 5 Điều 10 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, đồng thời bổ sung quy định về giải quyết hậu quả việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính.

4. Báo Hà Nội mới có bài Đề xuất hạ tuổi kết hôn. Bài báo phản ánh: Ngày 25-6, Sở Tư pháp TP Hà Nội tổ chức hội thảo lấy ý kiến của các đơn vị, tổ chức liên quan về Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình. Nội dung độ tuổi kết hôn của Dự thảo nhận được nhiều đề xuất khác nhau.

Đa phần đại biểu đồng tình với phương án quy định: Nam, nữ, từ đủ 18 tuổi trở lên được phép kết hôn. Bởi sự cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống, sự phát triển nhanh về thể chất và đời sống tinh thần của người Việt Nam hiện nay đã bảo đảm cho công dân nam, nữ có thể kết hôn khi ở độ tuổi này. Bên cạnh đó, đề xuất nam nữ từ đủ 18 tuổi trở lên được phép kết hôn bảo đảm sự đồng bộ với quy định của Bộ luật Dân sự về người đã thành niên và quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về năng lực tham gia tố tụng của cá nhân.

5. Báo Hà Nội mới có bài Cấp mã số định danh cá nhân: Giảm giấy tờ, tăng băn khoăn. Bài báo phản ánh: Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Theo đó, từ năm 2016 sẽ triển khai cấp mã số định danh cá nhân (MSĐDCN), vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi thực hiện thủ tục hành chính, giảm giấy tờ gây tốn kém cho công dân. Xung quanh Đề án này, Báo Hà nội mới nhận được nhiều ý kiến từ bạn đọc.

Vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà người dân gặp phải khi giao dịch chính là các thủ tục hành chính rườm rà. Đúng như con số mà Bộ Tư pháp đưa ra, với quy mô dân số gần 90 triệu dân, trung bình số lượng giao dịch hành chính công được thực hiện giữa công dân và cơ quan hành chính, sự nghiệp ở nước ta khoảng 600.000 giao dịch/ngày, trong đó, hầu hết các thủ tục đều yêu cầu công dân phải tự chứng minh về nhân thân của mình qua việc xuất trình hoặc nộp bản sao các giấy tờ; hồ sơ có chứng thực... tạo gánh nặng hành chính lớn. Với việc triển khai đề án, người dân chỉ cần cung cấp MSĐDCN mà không cần phải mang theo các giấy tờ chứng minh khác khi giao dịch đòi hỏi thủ tục hành chính, cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm tra cứu, tôi thấy vô cùng tiện lợi và mong đề án sớm triển khai. Tuy nhiên, điều tôi băn khoăn nhất là sự quản lý, bảo mật các thông tin cá nhân này thế nào để không xảy ra trường hợp thông tin bị hacker đem “bán” cho các doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng... và người dân lại suốt ngày bị gọi điện chào mời thì rất bất tiện.

Ông Nguyễn Công Hảo (phố Quan Nhân, phường Nhân Chính, Thanh Xuân): MSĐDCN có thay thế được hết tất cả các loại giấy tờ? Tôi hoàn toàn nhất trí với đề án nhưng điều tôi còn băn khoăn là MSĐDCN có hoàn toàn thay thế hết các giấy tờ liên quan đến một công dân như: Giấy khai sinh, hộ khẩu, giấy chứng nhận kết hôn… thậm chí cả thẻ BHYT, BHXH? Về cơ bản, có thể gộp giấy khai sinh, sổ hộ khẩu… trên MSĐDCN để phục vụ các cơ quan hành chính nhà nước tại bốn cấp chính quyền khai thác sử dụng thông tin trực tuyến. Điều này đồng nghĩa với việc khi người dân có yêu cầu thực hiện thủ tục hành chính sẽ không phải kê khai như hiện nay. Các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp không thuộc bốn cấp chính quyền sẽ khai thác và kiểm tra thông tin của đối tác mình đang giao tiếp, hợp tác như thế nào nếu không có một loại giấy tờ thông dụng nhất như tấm chứng minh nhân dân (CMND) hiện nay? Vì thế, khó có cơ sở để khẳng định rằng, cấp MSĐDCN sẽ không cần đến CMND nữa. Cũng sẽ khó khăn và phức tạp để có thể ghép số thẻ BHYT, BHXH vào MSĐDCN bởi hiện tại mỗi loại thẻ này đều được cơ quan quản lý mã hóa con số theo cách thức riêng với từng đối tượng sử dụng thẻ cụ thể.

Bà Nguyễn Thu Hằng (phường Quỳnh Lôi, quận Hai Bà Trưng): Cần nghiên cứu, tính toán thật kỹ. Để đề án thành công, tránh việc triển khai thực hiện mới nhận thấy còn nhiều thiếu sót rồi rút kinh nghiệm, cấp đi cấp lại phiền hà giống trường hợp cấp mẫu CMND mới có tên cha, mẹ mới được thực hiện rồi xóa bỏ gần đây, theo tôi, chúng ta nên học hỏi một số nước đã thực hiện và rút kinh nghiệm để áp dụng ở Việt Nam cho phù hợp. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu, sản xuất thẻ MSĐDCN bảo đảm chất lượng để chiếc thẻ có thể được sử dụng dài hạn, tránh trường hợp bay màu, bay mực, mất chữ, mất vạch, để rồi cứ 5-10 năm lại phải đi xin cấp lại... Mục tiêu của đề án rất tốt, giúp tiện lợi và hiện đại hóa các khâu, giảm phiền phức nhũng nhiễu, tiết kiệm ngân sách cho nhà nước, giúp công dân dễ dàng tham gia các lĩnh vực mà không cần phải mất cả buổi để đi làm các giấy tờ in sao kê mệt mỏi. Tôi rất kỳ vọng và mong đề án sớm thực thi.

Chị Đặng Thu Hằng (Công ty TNHH Hồng Trường): Cần xây dựng, đào tạo một đội ngũ cán bộ thành thạo công nghệ thông tin. Một kho cơ sở dữ liệu cá nhân chưa thể nói lên sự thành công của đề án mà còn phải kèm theo máy móc thiết bị, đường truyền trực tuyến…, và quan trọng nhất là phải có nguồn nhân lực đủ trình độ và kỹ thuật để làm chủ kho dữ liệu này. Sử dụng, khai thác không đúng và triệt để sẽ rất lãng phí mà chưa chắc đã giảm thủ tục hành chính phiền hà. Vì trên thực tế, việc đưa hoạt động chứng thực về các cấp chính quyền cơ sở là tạo điều kiện cho người dân tiện đi lại, rút ngắn thời gian chờ đợi. Tuy nhiên, do một số địa phương chưa chú trọng trang bị và duy trì máy photocopy hoạt động liên tục nên người dân phải thêm công đoạn đem photocopi ở bên ngoài, vừa mất thời gian, vừa không bảo đảm quy trình sao y bản chính. Hay như việc thu thuế qua các ngân hàng thay vì phải xếp hàng chầu trực cả buổi tại kho bạc nhà nước cũng mang lại nhiều tiện ích, thế nhưng nhiều khi doanh nghiệp không thể thực hiện nghĩa vụ của mình chỉ vì đường truyền internet hoạt động chập chờn... Vậy nên, dù khoa học, công nghệ phát triển hiện đại đến đâu cũng phải cần con người có trình độ khai thác và vận hành mới được kết quả như mong muốn.

6. Báo VOV Online có bài Tảo hôn, kết hôn cận huyết thống - câu chuyện ăn sâu, bám rễ. Bài báo phản ánh: Kết hôn cận huyêt thống, dẫn đến trẻ em sinh ra mắc các bệnh bạch tạng dị dạng, tan huyết bẩm sinh.

Mặc dù đã 12 năm thực hiên Luật hôn nhân và gia đình, song tình trạng  tảo hôn, kết hôn cận huyết thống  vẫn  diễn ra khá phổ biến ở các  tỉnh Tây Bắc.  Có những xã tỷ lệ tảo hôn trong  độ tuổi từ 12 đến 17  lên đến 50%. Kết hôn cận huyêt thống cũng không phải là  hiếm, dẫn đến trẻ em sinh ra mắc các bệnh bạch tạng dị dạng, tan huyết bẩm sinh, nhẹ  cũng mù màu, vẩy nến vẩy rồng,  ảnh hưởng đến chất lượng  cuộc sống của nhiều thế hệ gia đình ...

Chị Mùi Thị Hân, cán bộ chuyên trách Dân số - kế hoạch hóa gia đình xã Vân Hồ thông tin, 6 tháng đầu năm 2012,  xã có 76 cặp vợ chồng lấy nhau, thì có 44 cặp tảo hôn. Việc tuyên truyền vận động không kết hôn sớm, kết hôn cận huyết thống chưa mang lại hiệu quả như mong muốn: mình đi tuyên truyền vào các cuộc hội họp, hoặc là tổ chức đêm giao lưu văn nghệ  để nói cho người ta biết tác hại của tảo hôn. Có gia đình chồng hiểu, nhưng vợ không hiểu. Chính quyền can thiệp thì chỉ phạt như hương ước, qui ước làng bản chỉ mấy trăm nghìn thôi thì  người ta vẫn nộp phạt cho con người ta rồi vẫn tổ chức cưới)..

Ở Sơn La không chỉ các xã vùng sâu, vùng xa mà ngay trung tâm thành phố tình trạng kết hôn vẫn diễn ra khá phổ biến. Xã Hua La, thành phố Sơn La là một minh chứng. Nếu như năm ngoái xã có 27 cặp tảo hôn thì quý I năm nay, xã đã có 9 cặp lấy chồng, lấy vợ chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn. Chị Tòng Thị Xuân, cán bộ dân số xã Hua La thừa nhận: vẫn có tình trạng tảo hôn, chủ yếu là các em đang trong độ tuổi học lớp 9, lớp 10. Do lớp trẻ tìm hiểu sớm dẫn đến mang thai ngoài ý muốn từ đó trở thành người không thực hiện Luật hôn nhân gia đình).

Theo  Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Sơn La, ở  26 xã điểm trong ba năm gần đây có 6.200 cặp vợ chồng tảo hôn, chiếm hơn 23% trong tổng số cặp vợ chồng kết hôn và  có gần 800 trường hợp kết hôn cận huyết thống, chiếm gần 3% so với tổng số cặp kết hôn tại địa bàn. Riêng năm 2012, có gần 270 trường hợp tảo hôn, 12 trường hợp kết hôn cận huyết thống.  Câu chuyện tảo hôn, kết hôn cận huyết thống xem ra đang tiếp tục ăn sâu, bám rễ trong đồng bào các dân tộc ở Sơn La.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Công thương có bài Bộ Công Thương: Chưa chốt dự thảo sửa đổi NĐ 84 về xăng dầu. Bài báo phản ánh: Theo một số thông tin, Bộ Công Thương đã chốt phương án điều chỉnh giá xăng dầu để trình Chính phủ, nhưng theo Vụ Thị trường trong nước Bộ Công Thương, đây chỉ là dự thảo lần 4 về Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu, Bộ sẽ tiếp tục còn sửa đổi dự thảo.

Các thông tin đưa ra đều cho rằng, Bộ Công Thương đã chốt phương án điều chỉnh giá xăng dầu duy nhất để trình Chính phủ. Tuy nhiên, hôm nay (25/6) trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, Vụ thị trường trong nước Bộ Công Thương- cho biết: Vừa qua, dự thảo lần 4 sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 15/10/2009 về kinh doanh xăng dầu được Bộ Công Thương gửi cho 12 bộ liên quan để đóng góp ý kiến. Đây chưa phải là dự thảo cuối cùng.

Theo Vụ Thị trường trong nước, sau khi các bộ đóng góp ý kiến gửi về Bộ Công Thương, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục sửa đổi, bổ sung để soạn thảo dự thảo lần 5 về Nghị định này. Sau đó dự thảo lần 5 sẽ gửi cho Bộ Tư pháp rà soát, đóng góp ý kiến.

Sau khi Bộ Tư pháp rà soát, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục sửa đổi dự thảo, đồng thời làm báo cáo tác động và báo cáo thuyết minh giải trình về các quy định sửa đổi, bổ sung cũng như chọn lựa các phương án trong dự thảo để trình Chính Thủ tướng Chính phủ.

Vì thế, thông tin Bộ Công Thương chốt phương án để trình Chính phủ là không đúng.

2. Báo Giáo dục Việt Nam có bài Thanh tra Chính phủ không đổi kết luận về vi phạm đất đai tại Đà Nẵng. Bài báo phản ánh: Thanh tra Chính phủ không thay đổi quan điểm trong nội dung Kết luận Thanh tra và cũng không có việc đồng ý với quan điểm nào khác của UBND TP Đà Nẵng

Theo đó, tại buổi tiếp xúc cử tri TP Đà Nẵng vào ngày 24/6, nhiều cử tri đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng giải thích rõ cho người dân biết vụ kết luận của Thanh tra Chính phủ cuối năm 2012 về việc TP Đà Nẵng gây thất thoát 3.400 tỉ đồng trong quản lý đất đai. Đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Đại biểu Quốc hội Khoá XIII tiếp xúc cử tri tại thành phố Đà Nẵng, có đề cập xung quanh vấn đề Thanh tra đất đai Đà Nẵng. Trong đó có nêu: “cách đây ba tuần, Thanh tra Chính phủ đã đồng ý với quan điểm của UBND TP Đà Nẵng”. Ông Nguyễn Bá Thanh cho biết: Thành ủy Đà Nẵng đã có báo cáo Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ”. 

Để thông tin rõ hơn trước dư luận, Thanh tra Chính phủ khẳng định, Kết luận của Thanh tra Chính phủ về những vi phạm của Thành phố Đà Nẵng trong quản lý nhà nước về đất đai làm thất thu ngân sách Nhà nước là có cơ sở pháp lý, đã được các Bộ ngành có liên quan tham gia ý kiến (Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường) và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý.

Thanh tra Chính phủ không thay đổi quan điểm trong nội dung Kết luận Thanh tra và cũng không có việc đồng ý với quan điểm nào khác của UBND TP Đà Nẵng.

Theo đó, tờ Pháp Luật TP HCM dẫn lời ông Nguyễn Bá Thanh phát biểu tại buổi tiếp xúc cử tri khẳng định rằng: UBND thành phố không chấp nhận con số mà Thanh tra Chính phủ nêu ra và thành phố đã báo cáo với Thủ tướng, Bộ Chính trị.

Việc thành phố giảm 10% tiền sử dụng đất cho người dân diện bồi thường giải tỏa và doanh nghiệp đối với các trường hợp nộp tiền một lần trong 60 ngày là đã có chủ trương của Chính phủ. Ông Thanh cũng cho rằng các chính sách và quản lý nhà nước về đất đai của TP Đà Nẵng là không sai.

Trách nhiệm của cá nhân, của tập thể là rất rõ ràng chứ không có chuyện mù mờ, giấu giếm. Sau khi thành phố giải trình với Thanh tra Chính phủ và làm việc với các bên liên quan thì đến nay sự việc đã được chấp thuận.

Ông Thanh cho biết cách đây ba tuần, Thanh tra Chính phủ đã đồng ý với quan điểm của UBND TP Đà Nẵng, dù “trước đây rất căng”.



File đính kèm