Điểm tin báo chí sáng ngày 19 tháng 6 năm 2013

19/06/2013
Trong ngày 18/6 và đầu giờ sáng ngày 19/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

            1. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc. Bài báo đưa tin: hôm nay, 19-6, nhận lời mời của Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bắt đầu thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước CHND Trung Hoa. Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước Trung Quốc đầu tiên của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trên cương vị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam và là chuyến thăm cấp Nhà nước Trung Quốc đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Việt Nam sau khi Trung Quốc có ban lãnh đạo mới.

Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tăng cường sự tin cậy chính trị và hợp tác hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước, định ra phương hướng lớn cho mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đi vào chiều sâu, phát triển thực chất trên các lĩnh vực vì sự phát triển của hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Trong chuyến thăm này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ hội đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình, gặp các lãnh đạo cấp cao khác của Trung Quốc và thăm tỉnh Quảng Đông. Hai bên cũng sẽ ký kết một số thỏa thuận và văn kiện hợp tác.

Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Văn Thơ cho biết, lãnh đạo hai nước sẽ tiếp tục trao đổi thẳng thắn, chân thành về vấn đề biển Đông. Phía Việt Nam mong muốn, từ tầm cao chiến lược và quan hệ hữu nghị, lãnh đạo hai nước sẽ chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết vấn đề biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, trên cơ sở luật pháp quốc tế

2. Trang vtv.vn có bài Tốt nghiệp THPT 2013: Cả nước đạt 97,52%. Bài báo đưa tin: Báo cáo nhanh của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kết quả kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông 2013 cho thấy, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp năm nay có giảm, nhưng mức giảm không nhiều so với năm ngoái. Trong số 64 tỉnh thành, địa phương có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp cao nhất thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với 99,91%. Địa phương có tỷ lệ đỗ tốt nghiệp thấp nhất thuộc khu vực miền núi phía Bắc đạt 94,19%.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khốn khổ vì Thông tư 14 - Bài 3: Trái nhiều luật! Bài báo phản ánh: Nếu chỉ vì quyền lợi của người được thi hành án mà lại làm mất quyền lợi hợp pháp của người thứ ba mua nhà, đất ngay tình là hoàn toàn không ổn.

Theo các chuyên gia, quy định về việc kê biên, xử lý tài sản trong Thông tư 14 trái quy định về xác lập quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, thậm chí còn trái cả quy định của Luật Công chứng về hiệu lực của hợp đồng công chứng…

Trao đổi với chúng tôi, một số chấp hành viên lý giải sở dĩ có quy định bất lợi cho người mua nhà, đất ngay tình (khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14) là nhằm tháo gỡ tình trạng người phải thi hành án tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ. Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia khác lại cho rằng điều gây bức xúc nhất hiện nay của quy định trên là xâm phạm đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở hợp pháp của người mua ngay tình, vốn được pháp luật bảo hộ (trong trường hợp đã xác lập xong quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà). Mặt khác, quy định này - nằm trong Thông tư 14, một văn bản dưới luật - lại trái với nhiều quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng...

Theo TS Nguyễn Văn Tiến (giảng viên khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), quy định về việc kê biên, xử lý tài sản trong Thông tư 14 không phù hợp với nguyên tắc của pháp luật dân sự là bảo hộ quyền tài sản hợp pháp của người dân. Quy định này cũng trái với tinh thần của Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Đất đai 2003 khi phủ nhận quyền lợi chính đáng của người mua nhà, đất hợp pháp, đã được xác lập chủ quyền.

Cụ thể, Điều 688 Bộ luật Dân sự quy định: Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của bộ luật này và pháp luật về đất đai. Điều 692 bộ luật này, Điều 46 Luật Đất đai, khoản 4 Điều 146 Nghị định 181/2004 của Chính phủ cũng quy định: Quyền sử dụng đất (đất trống) của người nhận chuyển nhượng đất được xác lập kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất. Tương tự, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở của người nhận chuyển nhượng được xác lập kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất.

Như vậy, tinh thần của Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai là nếu giao dịch mua bán, chuyển nhượng trước đó đã được thực hiện hợp pháp, đúng trình tự, thủ tục thì phải được công nhận, không bị xem xét lại (luật bất hồi tố).

Mặt khác, theo luật sư Trần Hải Đức (Đoàn Luật sư TP.HCM), quy định về việc kê biên, xử lý tài sản trong Thông tư 14 còn trái với Luật Nhà ở 2005. Khoản 5 Điều 93 Luật Nhà ở nói rõ quyền sở hữu nhà ở (nhưng không có quyền sử dụng đất ở) của người mua được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng được công chứng nếu mua nhà của cá nhân hoặc kể từ thời điểm đã giao nhận nhà theo thỏa thuận trong hợp đồng nếu mua của tổ chức kinh doanh nhà ở. Chưa kể, nó còn mâu thuẫn cả với Điều 5 Luật Nhà ở là Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của chủ sở hữu.

Theo công chứng viên Bùi Đức Cát (Trưởng Văn phòng Công chứng Nhà Rồng, quận 12, TP.HCM), khoản 2 Điều 6 Luật Công chứng 2006 quy định rất rõ là văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị tòa tuyên bố là vô hiệu.

Như vậy, một hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất có công chứng chỉ bị mất giá trị pháp lý khi bị tòa tuyên bố vô hiệu. Trong khi đó, dựa vào quy định về việc kê biên, xử lý tài sản trong Thông tư 14, cơ quan thi hành án có thể phủ nhận, vô hiệu hóa giá trị pháp lý của hợp đồng công chứng khi gạt bỏ giao dịch chuyển nhượng hợp pháp, tước bỏ quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà hợp pháp của người mua ngay tình. “Một văn bản quy phạm pháp luật không thể làm vô hiệu hóa giá trị của hợp đồng công chứng. Cần nói thêm đây là những hợp đồng công chứng hợp pháp, đúng quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục... mà pháp luật bắt buộc phải có, phải làm. Nói thật là ngay từ khi quy định về việc kê biên, xử lý tài sản nói trên ra đời, tôi đã thấy rất ngạc nhiên về sự bất hợp lý của nó, đáng tiếc là đến nay nó vẫn tồn tại” - ông Cát nói.

Theo ông Cát, đã đến lúc các cơ quan chức năng cần ngồi lại tìm phương án khác để “trị” tình trạng tẩu tán tài sản của người phải thi hành án nhưng vẫn đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của người mua nhà, đất ngay tình.

“Tôi rất ủng hộ đề nghị này. Nếu chỉ vì quyền lợi của người được thi hành án mà lại làm mất quyền lợi hợp pháp của người thứ ba mua nhà, đất ngay tình là hoàn toàn không ổn. Tôi nghĩ ba cơ quan ban hành thông tư là Bộ Tư pháp, TAND Tối cao, VKSND Tối cao nên nhìn thẳng vào thực tế để ban hành quy định khác thay thế. Việc sửa đổi quy định không chỉ gỡ vướng cho chính cơ quan thi hành án, bảo vệ được người thứ ba ngay tình mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều là tạo niềm tin cho người dân vào các cơ quan thực thi pháp luật” - luật sư Cao Minh Triết (Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang) khẳng định.

2. Báo Người Cao tuổi có bài Quảng Nam: Một thửa đất hai doanh nghiệp khốn khổ. Bài báo phản ánh: Công ty Mía đường Quảng Nam phá sản nên tài sản của doanh nghiệp này được tổ chức bán đấu giá. Công ty Cửa Việt (Hà Nội) là đơn vị mua được tài sản theo hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số 28 ngày 25/3/2008 với Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Nam (Sở Tư pháp). Tài sản mua được là: Nhà xưởng; vật kiến trúc; máy móc thiết bị; công cụ, dụng cụ phân xưởng cơ khí, hóa nghiệm; hóa chất, vật tư, phụ tùng thay thế; thiết bị dụng cụ văn phòng của Công ty Mía đường Quảng Nam.

Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Quảng Nam, Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Nam đã bàn giao cho Công ty Cửa Việt tài sản và mặt bằng có tài sản của Công ty Mía đường Quảng Nam, kèm theo GCNQSDĐ được UBND tỉnh Quảng Nam cấp cho Nhà máy Mía đường Quảng Nam. Tại biên bản bán đấu giá quy định Công ty Cửa Việt có quyền thuê đất gắn liền với tài sản mua được. Nhưng điều bất ngờ cho cả bên tổ chức đấu giá và bên trúng đấu giá là họ không hề biết, trước khi tổ chức bán đấu giá UBND tỉnh Quảng Nam đã ra quyết định thu hồi đất của Nhà máy Mía đường Quảng Nam và giới thiệu lô đất này do doanh nghiệp may mặc Hòa Thọ. Việc che giấu thông tin quan trọng này mở đầu cho những phức tạp không đáng có.

UBND tỉnh Quảng Nam mới đây đã ra quyết định số 840/QĐ-UBND, ngày 20/3/2013 về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi khu đất Công ty Mía đường Quảng Nam (cũ) tại xã Hương An, huyện Quế Sơn. Công ty Cửa Việt choáng váng vì tài sản mua bán đấu giá thành công gồm nhà xưởng, vật kiến trúc và theo quy định của Điều 174 Bộ luật Dân sự thì các tài sản này phải gắn liền với đất đai. Điều 174 quy định bất động sản là các tài sản bao gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai... Nếu biết rằng đất đã bị thu hồi thì họ không thể bỏ ra 47 tỉ đồng mua những tài sản, kiến trúc để tháo dỡ như sắt vụn.

Tuy nhiên, vào ngày 9/4/2013 UBND huyện Quế Sơn, Quảng Nam đã thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất nói trên, thu giữ tài sản còn lại trên đất của Công ty Cửa Việt.

Công ty Cửa Việt bức xúc cho rằng: Chúng tôi không được thuê đất, không chiếm đất, chỉ quản lí tài sản trên đất là tài sản mua do cơ quan Nhà nước bán. Công ty chúng tôi có quyền sở hữu hợp pháp và được pháp luật bảo vệ, hiện nay tài sản lại bị UBND huyện Quế Sơn thu giữ. Việc thu giữ này không có bất kì quyết định nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Không biết dựa trên căn cứ pháp lí nào để UBND huyện Quế Sơn kiểm đếm, niêm phong, giữ tài sản hợp pháp của Công ty chúng tôi.

Năm 2007, khi UBND tỉnh Quảng Nam có các quyết định thu hồi đất thuộc quyền sử dụng của Công ty Mía đường Quảng Nam, thì Công ty này đang nằm trong thời gian Tòa án xem xét giải quyết phá sản theo quy định của pháp luật, chưa có quyết định phá sản. Luật Đất đai không quy định là Nhà nước thu hồi đất khi đơn vị thuê đất lâm vào tình trạng phá sản. Nếu UBND tỉnh Quảng Nam, các cơ quan chức năng vẫn khẳng định việc thu hồi đất của Công ty Mía đường Quảng Nam là đúng thì phải có phương án giải quyết tài sản trên đất theo quy định của Điều 713 Bộ luật Dân sự.

Khiếu nại của Cửa Việt cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Doanh nghiệp Cửa Việt rơi vào thế kẹt do tài sản mua bán hợp pháp bị niêm phong, đất lại bị thu hồi. Hơn nữa, UBND huyện Quế Sơn vừa có thông báo yêu cầu Cửa Việt tháo dỡ tài sản trong thời hạn 6 tháng, nếu không họ sẽ… bán đấu giá.

Ngược lại doanh nghiệp may mặc Hòa Thọ được UBND tỉnh giới thiệu lô đất này cũng không thể tiếp cận vì tài sản trên đất thuộc Công ty Cửa Việt. Vụ việc này cần được tháo gỡ để bảo đảm quyền lợi của các doanh nghiệp, đồng thời không để hoang phí tài nguyên đất đai của Nhà nước, bằng sự thương lượng trên cơ sở quy định của pháp luật. Thẩm quyền và điều kiện xử lí hoàn toàn phụ thuộc vào UBND tỉnh Quảng Nam.

3. Báo Dân Việt có bài Vụ tranh chấp đất rừng ở Quỳnh Lưu (Nghệ An): Công văn “có một không hai” với… 8 con dấu của tổ chức, đoàn thể. Bài báo phản ánh: Xung quanh sự việc ông Trần Xuân Lập (trú tại thị trấn Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu) khởi kiện ông Lê Duy Nguyên (nguyên đại biểu Quốc hội khóa X) để đòi lại 36,5ha đất rừng đứng tên ông Lập mà ông Nguyên đang chiếm dụng (NTNN đã phản ánh), phóng viên đã thu thập được một công văn khó hiểu của UBND xã Quỳnh Lập.

Đây là Công văn số 33/CV-UBND của UBND xã Quỳnh Lập gửi Báo VOV (Báo của Đài Tiếng nói VN). Về hình thức, chủ thể của công văn là UBND xã Quỳnh Lập, nhưng phần cuối lại có tới 8 con dấu với 8 chữ ký của 8 người đứng đầu 8 tổ chức, đoàn thể của xã Quỳnh Lập. Về nội dung, công văn “đặc biệt” này cho biết, ngày 14.11.2012, Đảng ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ xã Quỳnh Lập nhận được văn bản của doanh nghiệp trồng rừng Lê Duy Nguyên đề nghị kiểm tra, xem xét nội dung bài báo đăng trên báo VOV phản ánh vụ tranh chấp giữa ông Trần Xuân Lập và ông Lê Duy Nguyên.

Cũng theo công văn, ngày 23.11.2012, Thường trực của 4 cơ quan gồm Đảng ủy, HĐND, UBND, MTTQ xã Quỳnh Lập đã cùng một số tổ chức, đoàn thể tại địa phương tiến hành kiểm tra, xác minh nội dung bài báo và đưa ra kết luận bài báo đăng trên VOV có nội dung sai sự thật, bịa đặt, vu khống. Ông Đoàn Quang – Tổng Biên tập Báo VOV cho biết:

Trao đổi với một số cơ quan báo chí về việc này, ông Lê Đức Cường – Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Lưu cho biết: “Quy trình ban hành văn bản có 8 con dấu là sai và họ (UBND xã Quỳnh Lập – PV) đã nhận khuyết điểm. Tôi đã chỉ đạo ngay Phòng Tư pháp làm việc với UBND xã Quỳnh Lập. Trong biên bản làm việc của phòng tư pháp thì chính quyền xã cũng đã nhận ra cái sai về thể thức văn bản và cách ban hành văn bản”.

Ngày 25.12.2012, Phòng Tư pháp UBND huyện Quỳnh Lưu đã có Công văn số 136/TP trả lời Chủ tịch UBND huyện về kết quả kiểm tra văn bản của UBND xã Quỳnh Lập. Văn bản này kết luận: “Về hình thức và kỹ thuật trình bày của Công văn 33/CV-UBND là không đúng quy định của Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19.1.2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính”. Tuy nhiên, không chỉ dừng ở sai phạm về mặt hình thức, Công văn 33 của UBND xã Quỳnh Lập đã khiến cho dư luận nghi ngờ về sự bao che của chính quyền với những sai phạm của ông Lê Duy Nguyên mà NTNN từng phản ánh. 

4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Hạn chế thiệt hại cho bên yếu thế trong quan hệ dân sự. Bài báo phản ánh: Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã có quy định về bồi thường thiệt hại (BTTH) nhưng do không quy định cụ thể nên trong thực tiễn áp dụng, nghĩa vụ chứng minh người gây thiệt hại có lỗi thường thuộc về người có yêu cầu BTTH. Điều đó tạo ra một trách nhiệm pháp lý quá lớn, khó thực thi cho người bị thiệt hại vốn là bên yếu thế hơn trong mối quan hệ này.

Từ phản ánh, bức xúc của người dân địa phương về tình trạng lén lút xả nước thải không qua xử lý ra môi trường, sau hơn 3 tháng theo dõi, ngày 13/9/2008, đoàn kiểm tra liên ngành đã bắt quả tang Công ty Vedan đóng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Ban đầu Vedan không đồng ý bồi thường, chỉ “hỗ trợ” khoảng 20 tỉ đồng. Trước áp lực của công luận và sức ép người tiêu dùng, giữa tháng 8/2010 – tức là gần 2 năm sau, Vedan mới chấp nhận 100% yêu cầu bồi thường của nông dân TP.HCM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Đồng Nai với tổng số tiền 220 tỉ đồng.   

Trong vụ việc này, các chuyên gia đã cho biết: Nếu phải qua tố tụng thì cái khó nhất là từng hộ dân phải nộp đơn khởi kiện kèm theo những chứng cứ về thiệt hại của mình với những chi tiết và số liệu cụ thể, bởi không có thủ tục kiện tập thể như ở các nước. Theo đó, từng hộ dân phải nộp một hồ sơ khởi kiện riêng, phải xác định con số và chi tiết thiệt hại cụ thể kèm tài liệu, chứng cứ chứng minh thiệt hại ấy. Đứng trước những khó khăn của “mặt trận” pháp lý, rất nhiều lực lượng xã hội khác nhau đã tham gia đồng hành với nông dân như báo chí, Hội Bảo vệ người tiêu dùng TP.HCM, một số chuỗi siêu thị lớn…

Tuy nhiên, không phải vụ việc nào cũng đạt được kết quả như vụ việc trên (tất nhiên chưa tính đến những vất vả, trở ngại phải vượt qua), mà thông thường bị bên gây thiệt hại “lờ” đi. Chẳng hạn, vào ngày 20/12/2012, chị Hà, trú tại 50 Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội mua chai nước Fanta tại quán nước trước cửa Phòng Công chứng số 4. Sau khi mua về, chị Hà phát hiện ra bên trong chai nước có vật lạ màu trắng. Nhận thấy bất thường, chị Hà đã liên lạc qua điện thoại tới người đại diện của Công ty Coca Cola nhưng không nhận được bất kỳ thông tin nào giải thích về sự cố.

Thực trạng này có thể được giải thích một phần là do những hạn chế của BLDS hiện hành liên quan đến yếu tố lỗi và nghĩa vụ chứng minh về lỗi trong trách nhiệm BTTH. Cụ thể, đối với BTTH trong quan hệ hợp đồng, BLDS quy định không rõ ràng lỗi có phải là một yếu tố bắt buộc cần phải có của bên vi phạm để bên bị vi phạm có quyền yêu cầu BTTH không, hay chỉ cần có hành vi vi phạm hợp đồng của phía bên kia là bên bị thiệt hại đã có quyền yêu cầu BTTH mà không cần phải chứng minh bên kia có lỗi.

Đối với BTTH ngoài hợp đồng, BLDS quy định người nào có lỗi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân và các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường (Điều 604).

Tuy nhiên, Bộ luật lại không quy định cụ thể người gây thiệt hại hay người có yêu cầu về BTTH có trách nhiệm chứng minh về lỗi của người gây thiệt hại. Nguyên tắc trong pháp luật tố tụng dân sự là nghĩa vụ chứng minh thuộc về người yêu cầu. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng, người có yêu cầu BTTH có nghĩa vụ chứng minh người gây thiệt hại có lỗi, tạo ra một trách nhiệm pháp lý quá lớn, khó thực thi cho người bị thiệt hại trong nhiều trường hợp.

TS Nguyễn Thái Phúc (Giám đốc Học viện Tư pháp) nhận định, quy định trên đây của BLDS không bảo vệ được người bị thiệt hại – là bên yếu thế hơn trong quan hệ dân sự - vì buộc họ phải chứng minh thiệt hại, mức độ thiệt hại. Theo ông Phúc, pháp luật của nhiều nước trên thế giới (Pháp, các nước EU…) quy định, trong rất nhiều trường hợp bên bị thiệt hại chỉ có nghĩa vụ chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra, thậm chí người yếu thế chỉ cần đưa ra yêu cầu khởi kiện, còn trách nhiệm chứng minh mình không có lỗi thuộc về bên gây thiệt hại. Bởi thế, nhằm hạn chế thiệt hại cho bên bị thiệt hại cũng như tránh quy định trùng lắp hoặc mâu thuẫn với các luật chuyên ngành khác, BLDS cần sửa đổi theo hướng quy định cụ thể về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và BTTH… Ngoài ra, nên mở rộng thêm các trường hợp người có yêu cầu BTTH không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại, như trường hợp bị thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra hoặc do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra…

III- THÔNG TIN KHÁC

Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sửa luật để đảm bảo quyền của bị can, bị cáo. Bài báo đăng ý kiến trao đổi của ThS Đinh Văn Quế, nguyên Chánh tòa Hình sự TAND Tối cao, rằng “Tòa cứ xử, không cần trả hồ sơ”. Theo đó, ThS Đinh Văn Quế cho rằng trường hợp VKS truy tố bị cáo khoản 2 Điều 93 BLHS về tội giết người nhưng TAND (tỉnh Khánh Hòa) có quan điểm phải xử bị cáo ở khoản 1 điều luật này (khung hình phạt nặng hơn, đến tử hình) thì cứ đưa ra xét xử mà không cần phải trả hồ sơ vì luật cho phép. Ngoài ra, ông Quế còn cho rằng trường hợp này vẫn đảm bảo quyền được bào chữa của bị cáo (ngay tại tòa), còn ở giai đoạn điều tra, do bị cáo bị khởi tố ở khoản 2 nên luật không bắt buộc phải có luật sư tham gia ngay từ giai đoạn này nên không vi phạm tố tụng… Về cơ bản, tôi phần nào đồng tình với quan điểm của ông Quế. Nhưng tôi vẫn thấy còn có điều băn khoăn, cần trao đổi thêm.

Thứ nhất, quan điểm của ông Quế cũng như một số thẩm phán cho rằng tòa cứ xử vì đúng giới hạn xét xử mà Điều 196 BLTTHS cho phép (tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật…). Tuy nhiên, theo tôi, chính việc áp dụng Điều 196 này vô hình trung đã tước bỏ quyền bào chữa của bị cáo ngay từ giai đoạn điều tra. Bởi lẽ quyền bào chữa của bị cáo phải được đảm bảo trong suốt quá trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra cho đến khi xét xử chứ không chỉ được đảm bảo ở tại phiên tòa.

Vì vậy, theo tôi, sắp tới BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định chỉ cần bị can bị khởi tố về tội có khung hình phạt tử hình là phải đảm bảo có luật sư tham gia ngay từ giai đoạn điều tra, không phụ thuộc bị can bị khởi tố ở khung hình phạt có mức án tử hình hay không. Ví dụ trong vụ án ở Khánh Hòa đang đề cập, dù bị can bị khởi tố ở khoản 2 Điều 93 nhưng vẫn phải có luật sư tham gia ngay từ giai đoạn điều tra. Như thế trong quá trình tố tụng, nếu cơ quan tố tụng có thay đổi khung hình phạt (theo hướng nặng hơn, có mức án tử hình) thì vẫn đảm bảo được quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong suốt quá trình tố tụng.

Thứ hai, từ tình huống tòa - viện chỏi nhau về quan điểm áp dụng khung hình phạt đã khiến luật sư phải khó khăn, vất vả khi bào chữa, tranh tụng tại tòa. Theo dõi diễn biến phiên tòa công khai xử vụ đang đề cập (TAND tỉnh Khánh Hòa xử sơ thẩm ngày 12-6, tuyên bị cáo 18 năm tù theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS, trong khi viện truy tố khoản 2) ta mới thấy tình huống này. Đó là đại diện VKS do bảo vệ quan điểm truy tố khoản 2 nên chỉ đọc quyết định truy tố và luận tội theo khoản 2. Từ đó, luật sư và bị cáo cũng phải “bám theo” quan điểm công tố của viện để bào chữa, tranh luận.

Và mặc dù quyết định đưa vụ án ra xét xử có ghi “bị cáo có thể bị xét xử ở khoản 1” nhưng chuyện có xét xử… thiệt hay không thì vẫn phải chờ biểu quyết kín của HĐXX trong khi nghị án. Đến khi tòa tuyên án thì mọi sự đã rồi, lúc này luật sư có muốn bào chữa, tranh luận với tòa thì cũng đã muộn. Đó là chưa nói, do quan điểm truy tố của Viện và quan điểm xét xử của tòa có sự vênh nhau nên rất có thể sẽ xảy ra tình huống quá trình xét hỏi mỗi bên làm một phách, luật sư cũng chẳng biết đâu mà lần.

Như vậy làm sao có thể nói quyền bào chữa của bị cáo đã được đảm bảo?!

Tất nhiên, ở góc độ nghề nghiệp, luật sư vẫn có thể xoay trở để khắc phục tình huống này. Đó là luật sư phải chuẩn bị cả hai phương án bào chữa, một để tranh tụng với viện, một để tranh tụng “thòng” trước với tòa. Khi đó, sau khi tranh luận với viện xong, luật sư có thể nói (đại ý) “do quyết định đưa vụ án ra xét xử có đề cập khả năng bị cáo có thể bị xét xử ở khoản 1 nên chúng tôi xin phát biểu quan điểm để tranh luận theo khả năng này…”



File đính kèm