Điểm tin báo chí sáng ngày 18 tháng 6 năm 2013

18/06/2013
Trong ngày 17/6 và đầu giờ sáng ngày 18/6/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khốn khổ vì Thông tư 14 - Bài 2: May mắn được tòa bảo vệ. Bài báo phản ánh: Theo chuyên gia, chuyện nhà đất được bên phải thi hành án bán một cách hợp pháp trở thành cái “bẫy” với người mua cũng có phần lỗi của bên được thi hành án khi suốt quá trình kiện tụng trước đó đã không yêu cầu tòa kê biên...

Con đường quanh co qua nhiều khoảng rau muống xanh mướt chạy dài suốt ấp 6, xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn (TP.HCM) đã đưa chúng tôi đến gặp ông Chu Hùng Dương. Ông là người may mắn hiếm hoi được tòa bảo vệ, công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất hợp pháp trong vụ nhà, đất ông vừa mua đã bị kê biên vì nghĩa vụ thi hành án (THA) của chủ nhà cũ.

Năm 2009, ông Dương và một người bạn hùn hạp mua một căn nhà cấp 4 trên mảnh rộng đất 467 m2 tại xã Tân Đông Hiệp, Dĩ An (Bình Dương) của bà N. với giá 1,2 tỉ đồng. Hai bên đã đến Phòng công chứng số 2 (Bình Dương) ký hợp đồng chuyển nhượng. Giao tiền xong, phía ông Dương đã dọn đến nhà mới ở, chỉ chờ lấy giấy hồng theo phiếu hẹn của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Dĩ An.

Nhưng đến ngày hẹn Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Dĩ An trả lời cho phía ông Dương là chưa thể cấp giấy hồng vì có công văn ngăn chặn của Chi cục THA dân sự huyện. Tiếp đó, tháng 5-2009, Chi cục THA huyện đã ra quyết định kê biên nhà để đảm bảo THA cho một bản án liên quan đến bà N. Phía cơ quan THA cho rằng bà N. là người phải THA, theo quy định thì dù nhà, đất của bà đã bán cho người khác cũng vẫn bị kê biên, bán đấu giá để đảm bảo nghĩa vụ THA của bà.

 Ông Dương hốt hoảng kêu cứu khắp nơi. Chưa bao giờ cảm giác mất một khoản tiền dành dụm bao năm của ông lại hiện lên rõ như lúc ấy. Ông liên tục gửi đơn đến các cơ quan ở Dĩ An cho rằng mình là người mua hợp pháp và ngay tình, không hề biết chủ đất dính líu tới nợ nần, kiện tụng thì cớ sao lại kê biên nhà đất của ông. Đáp lại, cơ quan THA vẫn cho rằng mình làm đúng quy định.

Tháng 9-2010, ông Dương bất đắc dĩ phải khởi kiện ra tòa, yêu cầu tòa công nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất hợp pháp, đồng thời hủy quyết định kê biên nhà của Chi cục THA Dĩ An. Tháng 2-2012, TAND thị xã Dĩ An đã xử sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Dương. Phía Chi cục THA kháng cáo, cho rằng hợp đồng trên vô hiệu và đề nghị được tiếp tục phát mãi căn nhà để THA.

Năm tháng sau, TAND tỉnh Bình Dương đã bác kháng cáo của Chi cục THA, giữ nguyên án sơ thẩm. Theo tòa, tại thời điểm hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất thì không có bất cứ văn bản nào cấm việc mua bán. Do đó, công văn ngăn chặn và quyết định kê biên của Chi cục THA đã xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các bên, cần phải hủy bỏ. Từ đó, tòa công nhận quyền sở hữu hợp pháp của phía ông Dương đối với căn nhà.

Trao đổi, nhiều chuyên gia cho biết quy định về việc kê biên, xử lý tài sản để THA trong Thông tư liên tịch số 12 ngày 26-2-2001 của Bộ Tư pháp - VKSND Tối cao (nay được thay thế bằng Thông tư liên tịch số 14 ngày 26-7-2010 của Bộ Tư pháp - TAND Tối cao - VKSND Tối cao) đã tạo ra nhiều “nạn nhân” như ông Dương.

Cụ thể, cả hai thông tư đều quy định kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải THA bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng khoản tiền thu được để THA thì tài sản đó vẫn bị kê biên để THA...

Thực tế, rất nhiều trường hợp trong quá trình kiện tụng, người được THA không yêu cầu tòa kê biên nhà, đất của người phải THA. Do đó, người phải THA vẫn có thể bán nhà, đất một cách hợp pháp (vì không bị cơ quan nào ngăn chặn). Lúc này, người nào không biết, lỡ mua phải nhà, đất đó sẽ trở thành “nạn nhân”, bị cơ quan THA kê biên nhà, đất dù họ mua hợp pháp, ngay tình và không liên quan gì đến nghĩa vụ THA của bên bán nhà, đất cả.

Vụ việc của ông Dương chỉ là một trường hợp may mắn hiếm hoi được tòa đứng ra bênh vực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng một cách rất rõ ràng. Ở các trường hợp tương tự, người mua nhà, đất không biết phải kiện ai bởi kiện chủ nhà, chủ đất cũ thì nhiều tòa bảo việc mua bán, chuyển nhượng đã xong, hai bên không có tranh chấp nên không thụ lý. Chưa kể nếu chọn cách này, dù có được tòa thụ lý, giải quyết, tuyên hợp đồng vô hiệu thì người mua nhà, đất sẽ đối mặt với rủi ro là không biết lúc nào mới lấy lại được tiền. Mặt khác, họ kiện cơ quan THA cũng không được bởi nhiều tòa cho rằng cơ quan THA không làm gì sai khi căn cứ vào quy định của Thông tư liên tịch.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Đắng lòng cưỡng chế… án ly hôn. Bài báo phản ánh: Những tưởng để giành quyền nuôi con chung, vợ chồng chỉ khó “phân chia” ở Tòa án. Nhưng sự thật thì sau khi bản án ly hôn có hiệu lực, nhiều vụ con không thể trở về với cha hoặc mẹ - những người được quyền nuôi dưỡng vì nhiều lý do.

Một vụ án khá thương tâm vừa xảy ra ở Hà Tĩnh mà Chấp hành viên cũng là người “mắc kẹt” khi thực hiện quyền giao con từ cha về cho mẹ. Tại bản án ly hôn của TAND huyện C.L đã xử anh A phải giao cháu Nguyễn Kim Cô (sinh ngày 01/12/2004) cho chị B nuôi dưỡng, anh A phải đóng góp phí tổn nuôi con chung. Tuy nhiên, sau khi án có hiệu lực, anh A không tự nguyện thi hành mà còn đem con đi giấu ở nơi khác. Anh A cho biết, chị B bỏ nhà đi biệt tích từ lúc sinh con ra được 5 tháng, để mình anh lo từng bữa ăn nuôi bé Kim Cô khôn lớn. Bản thân cháu Kim Cô cũng xin được ở với bố vì không còn tình cảm với mẹ. Sau 3 lần tổ chức cưỡng chế không thành thì trong một cơn lũ quét bất ngờ, cháu Kim Cô đã đã bị nước cuốn trôi. Bản án vĩnh viễn nằm đó, giống như số phận của đứa trẻ vô tội…

Điều 120 Luật Thi hành án dân sự về cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định quy định: Chấp hành viên ra quyết định buộc giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định. Trước khi cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng, Chấp hành viên phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị – xã hội tại địa phương đó thuyết phục đương sự tự nguyện THA. Trường hợp người phải THA hoặc người đang trông giữ người chưa thành niên không giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền, ấn định thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phạt tiền để người đó giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng.

Hết thời hạn đã ấn định mà người đó không thực hiện thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế buộc giao người chưa thành niên hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án. Quy định như vậy, nhưng thực tiễn thi hành các bản án ly hôn luôn là sự thử thách đối với bất cứ Chấp hành viên nào. Đành rằng, bản án đã có hiệu lực nhưng trong trường hợp đứa trẻ không chịu về với người kia, hay người kia vì lý do nào đó muốn giữ con ở lại thì những người thực thi công vụ cũng khó lòng mà tiến hành cưỡng chế.

Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự Thanh Xuân (Hà Nội) Nguyễn Song Hà chia sẻ: “Hầu hết các vụ giao con sau ly hôn chúng tôi đều sử dụng biện pháp giáo dục thuyết phục là chính. Đứa trẻ không phải là vật vô tri vô giác, chúng đã thiệt thòi khi bố mẹ ly hôn, nếu cưỡng chế thi hành án khi chúng không muốn ở với người mà chúng không thích thì một lần nữa sẽ làm chúng bị tổn thương”.

Thực tế, trong nhiều trường hợp, vận động, thuyết phục mà bên phải THA vẫn không chịu giao đứa trẻ. "Cưỡng chế là giải pháp cuối cùng, bất đắc dĩ mới phải làm. Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép người có thẩm quyền được xử phạt hành chính, mức độ cao hơn là xử lý hình sự về tội không chấp hành án. Trong một số trường hợp chây ỳ, chống đối, cơ quan pháp luật cũng phải mạnh tay, nếu không đương sự sẽ "nhờn”, một Chấp hành viên khẳng định.

Tuy nhiên, một giải pháp khả dĩ hơn được đưa ra cho những trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm được cuộc sống cho đứa trẻ cả về vật chất, tinh thần, hoặc nếu đứa trẻ có nguyện vọng được thay đổi người nuôi dưỡng thì người không được giao quyền nuôi con có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Đó là cách tốt nhất giành lại quyền nuôi con mà không vi phạm luật pháp.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đại diện bộ xây dựng: “Đòi bản vẽ không phải là thêm thủ tục!”. Bài báo phản ánh: Thông tư 10 không nhắc đến bản vẽ kết cấu nhưng không có nghĩa là bỏ bản vẽ này trong hồ sơ xin phép xây dựng.

Dù nhiều ý kiến cho rằng việc đòi bản vẽ kết cấu khi cấp phép xây dựng là làm khó dân ngoài quy định (Pháp Luật TP.HCM ngày 17-6) nhưng Bộ Xây dựng vẫn cho rằng hồ sơ xin phép xây dựng nhất thiết phải có bản vẽ này. “Nói xin phép xây dựng khó hơn là hiểu lầm. Tuy hồ sơ có thêm bản vẽ kết cấu nhưng đó không phải là phát sinh thủ tục và gây tốn kém cho dân” - ông Bùi Trung Dung, Vụ trưởng Vụ Quản lý hoạt động xây dựng (Bộ Xây dựng), trả lời Pháp Luật TP.HCM vào ngày 17-6.

Thưa ông, lâu nay việc cấp phép xây dựng thực hiện theo Quyết định 68/2010 của UBND TP.HCM tương đối đơn giản, thuận lợi. Nay Nghị định 64/2012 yêu cầu trong hồ sơ xin phép xây dựng phải có thêm bản vẽ kết cấu chịu lực chính công trình. Tại sao ông lại cho rằng đòi hỏi này không làm phát sinh thủ tục?

+ Ông Bùi Trung Dung: Tôi khẳng định việc thêm bản vẽ kết cấu vào hồ sơ xin phép xây dựng không phải là thêm thủ tục làm khó cho dân như nhiều ý kiến nhận xét. Bởi theo Luật Xây dựng, trước khi khởi công thì công trình có diện tích sàn xây dựng trên 250 m2 và trên ba tầng bắt buộc phải có bản vẽ thi công, trong đó có bản vẽ kết cấu. Còn Nghị định 12/2009 yêu cầu bản vẽ thi công phải do cá nhân hoặc tổ chức có chức năng thực hiện. Do đó, chủ đầu tư chỉ cần trích bản vẽ kết cấu trong bộ bản vẽ thi công để nộp cho cơ quan cấp phép. Việc này nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn cho người dân và cộng đồng xung quanh trong quá trình xây dựng.

 Nhưng theo Luật Xây dựng, chỉ khi nào khởi công công trình thì chủ nhà mới phải có bản vẽ thi công (tức bản vẽ này nằm ở giai đoạn hậu cấp phép xây dựng). Nay lại đưa vào khâu xin phép xây dựng là có hợp lý không?

+ Vừa qua có không ít công trình xây dựng xảy ra sự cố gây thiệt hại về tài sản, nhân mạng. Qua kiểm tra thì hầu hết công trình đó không có bản vẽ thi công. Vì thế, Nghị định 64 mới yêu cầu phải có bản vẽ kết cấu ngay ở khâu xin phép xây dựng. Đây là sự nhắc nhở theo ý nghĩa bắt buộc chủ đầu tư phải có bản vẽ thi công được tổ chức, cá nhân có chức năng thực hiện và chịu trách nhiệm.

Nhưng người dân cho rằng họ chưa biết có được cấp phép xây dựng không, quy mô bao nhiêu thì làm sao lập bản vẽ thi công để trích ra bản vẽ kết cấu nộp cho cơ quan cấp phép? Hoặc họ sẽ đối phó bằng cách thuê mượn bản vẽ kết cấu ở đâu đó, sau đó thi công bằng bản vẽ khác.

+ Không thể có việc khi xin phép xây dựng người dân không biết mình được chấp nhận không, quy mô bao nhiêu. Nhà nước phải có trách nhiệm công khai thông tin quy hoạch và các chỉ tiêu cho người dân. Khi chủ đầu tư trả tiền cho đơn vị tư vấn để lập bản vẽ, nơi này phải có trách nhiệm liên hệ, xin thông tin từ cơ quan cấp phép để thiết kế bản vẽ cho phù hợp.

Ông nhấn mạnh đến mục đích nhằm bảo đảm an toàn trong thi công, nhưng thực tế cán bộ cấp phép xây dựng không thẩm định bản vẽ kết cấu đúng hay sai, tốt hay dở mà chỉ cần thấy có trong hồ sơ là đủ. Có ý kiến cho rằng nếu chỉ cần nộp cho có, cho đủ bộ thì yêu cầu làm gì?

+ Nghị định 64 nêu rõ cán bộ cấp phép không thẩm định hay phê duyệt bản vẽ kết cấu. Bản vẽ đúng hay sai, tốt hay dở là do chủ đầu tư và đơn vị tư vấn thiết kế thực hiện chịu trách nhiệm. Pháp luật đã giao trách nhiệm này cho họ nên không cần cơ quan nhà nước can thiệp. Cơ quan cấp phép chỉ cần quản lý về mặt thủ tục hành chính, nghĩa là trong bộ hồ sơ phải có bản vẽ kết cấu thực hiện đúng yêu cầu.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cần thẩm định tính hợp lý của bản vẽ với công trình xin phép. Nếu thấy bản vẽ vô lý mà vẫn cho qua thì cán bộ cấp phép không làm hết trách nhiệm.

Trong Thông tư 10/2012, Bộ Xây dựng không quy định thành phần hồ sơ xin phép xây dựng có bản vẽ kết cấu. Vì thế một số địa phương mới cho rằng không cần thiết phải có bản vẽ này trong hồ sơ.

+ Về nguyên tắc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thông tư chỉ hướng dẫn những nội dung chưa rõ của nghị định. Quy định về bản vẽ kết cấu đã thể hiện rõ ràng trong Nghị định 64 nên Thông tư 10 không lặp lại. Nếu không, chúng tôi sẽ bị cơ quan gác cửa là Bộ Tư pháp thổi còi. Tôi nhấn mạnh lại là Thông tư 10 không nhắc đến bản vẽ kết cấu nhưng không có nghĩa là bỏ bản vẽ này trong hồ sơ xin phép xây dựng.

2. Trang TuanVietnam.net có bài Đến ra chính sách cũng... lãng phí. Bài báo đăng bài phỏng vấn ông Lê Thanh Vân, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách QH.

Tham gia đoàn giám sát của Quốc hội vừa qua về việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong lĩnh vực đầu tư công, ông thấy tình trạng lãng phí xảy ra phổ biến nhất ở những khâu nào?

- Lãng phí thứ nhất là từ khâu ban hành chính sách, thể chế. Một chính sách được ban hành không có tính khả thi thậm chí còn gây cản trở cho quá trình phát triển.

Loại lãng phí thứ hai là lãng phí thời gian áp dụng các quy định.

Có quy định lẽ ra phải áp dụng sớm vì những mối quan hệ xã hội đòi hỏi phải xử lí ngay. Nhưng do chúng ta chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, hoặc chậm triển khai vào cuộc sống, dẫn đến sự lãng phí đáng kể. Các dự án treo "nhan nhản" trong lĩnh vực quy hoạch chẳng hạn. Nói chung, bức tranh lãng phí muôn hình vạn trạng. Muốn kiểm soát nó cần bắt đầu từ chính ý thức của mỗi người, khi nhận thấy lãng phí phải có phương án đối phó ngay.

Vậy còn trong các cơ quan nhà nước, tình trạng lãng phí diễn ra nhiều nhất ở lĩnh vực nào?

- Tại các cơ quan nhà nước, tình trạng lãng phí trong chi tiêu được nhắc đến nhiều nhất là đi công tác nước ngoài, hội họp, sử dụng công quỹ sai mục đích... Tuy nhiên, hiện tượng lãng phí phổ biến nhất lại nằm ở các hoạt động có tính chất hành chính.

Yếu tố chi phối lớn nhất đến hoạt động của bộ máy hành chính là xây dựng chương trình công tác sao cho chuẩn xác, suôn sẻ. Khâu này chỉ cần sai lệch một li cũng có thể khiến cả bộ máy vận hành sai. Đó là sự lãng phí.

Loại lãng phí thứ hai là tình trạng "thừa khâu" trong quy trình công tác, họa động, gây thiệt hại thời gian, nhân lực.

Chẳng hạn, thường ở các cơ quan nhà nước, một chỉ thị, mệnh lệnh thay vì được truyền đạt trực tiếp từ thủ trưởng đến người thừa hành, thì lâu nay lại phải qua một khâu trung gian là cấp phòng, vụ.

Chuyện sửa văn bản cũng vậy. Một văn bản được ban hành nhẽ ra chỉ cần được lãnh đạo đồng ý hoặc phản đối. Song thực ra quy trình duyệt lại hết sức nhiêu khê. Cấp chuyên viên từ văn phòng phải trình lên vụ, vụ trình lên bộ...

Hai vấn đề tôi nói ở trên xuất phát từ tính chuyên nghiệp của bộ máy. Quy trình xây dựng tốt phải có đội ngũ công chức chuyên nghiệp vận hành cho khớp, nếu không cũng thành bất ổn.

Trong lần sửa Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí lần này, chúng ta phải đưa ra một khuôn khổ pháp lí bao gồm các quy tắc xử sự như một mẫu mực chung cho tất cả mọi hành vi, bao quát từ khu vực công đến khu vực tư.

Vậy dự án luật đã đạt được mục tiêu chưa thưa ông?

- Tuy dự thảo luật lần này đã cụ thể hóa hơn các quan hệ pháp luật liên quan đến thực hành tiết kiệm chống lãng phí nhưng theo tôi vẫn chưa đạt mục tiêu. Chúng ta đều biết, nếu sa đà vào cụ thể, luật sẽ mất tính bao quát, toàn diện cần có. Phạm vi điều chỉnh càng rộng thì càng phải khái quát để làm sao các quy định của luật phải thực sự là quy tắc chuẩn mực để cả xã hội noi theo.

Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cần điều chỉnh ba lĩnh vực sau: chi tiêu ngân sách nhà nước hay gọi là chi tiêu công; việc sử dụng tài nguyên đất nước và thứ ba là các quan hệ khác, có thể là của một tổ chức, cơ quan và đặc biệt là từng cá nhân.

Cùng với đó là ba phương pháp điều chỉnh hành vi của ba nhóm đối tượng liên quan. Với nhóm thứ nhất, phải duy trì kỷ luật, kỉ cương nhà nước, thậm chí có thể thiên về biện pháp hành chính, hay cưỡng bức để buộc phải tuân theo. Với nhóm hai, cần phân hóa ra đâu là khu vực nhà nước, đâu là khu vực tư nhân. Biện pháp điều chỉnh có thể vẫn phải áp dụng hình thức cưỡng bức, để bảo đảm tài nguyên quốc gia không bị sử dụng vô tội vạ. Còn với nhóm đối tượng thứ ba, phải vận động thuyết phục vì đây là hành vi lãng phí ngoài xã hội, không liên quan đến lạm dụng tài sản công hay tài nguyên quốc gia.

Rõ ràng chỉ khi phân biệt được các phạm vi đối tượng và đưa ra phương pháp xử lý tương ứng,  mới xây dựng được khuôn khổ chung mẫu mực, trở thành quy tắc ứng xử cho mọi hành vi.

3. Báo điện tử VnEconomy có bài Mạng và Luật Đất đai. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son rất hiếm khi trả lời phỏng vấn báo chí bên hành lang Quốc hội, nhưng sáng 17/6 thì khác.

Thông tin phạm nhân Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực ở một số trang mạng xã hội, phóng sự trên VTV cho thấy ông Vũ vẫn mạnh khỏe, việc quản lý thông tin trên mạng xã hội…, đều nằm trong các câu hỏi của phóng viên với Bộ trưởng Son. Ông Son nói, theo quy định của luật thì khi các cơ quan báo chí có yêu cầu, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin và tạo điều kiện tiếp cận các nguồn tin. Tuy nhiên, giờ không nên đặt lại vấn đề như thế vì thông tin thì rõ rồi, rất cụ thể, và từ những thông tin rất chính thống như thế mình có thể bình luận thêm để người dân hiểu từ sự thật hoàn toàn như thế mà người ta đã dựng lên thông tin nào là tuyệt thực, sức khỏe rất yếu… Như vậy người dân có quyền nghi ngờ tất cả những thông tin kiểu thất thiệt như vậy trước đây các "thế lực thù địch" đưa ra. Vẫn theo Bộ trưởng Son, vấn đề này đã được giao các cơ quan xem xét để tìm ra nguồn gốc ở đâu. Nếu từ các mạng xã hội có tên miền .vn tức có nguồn gốc từ Việt Nam thì mình có thể quản lý, truy nguyên được. Còn các mạng xã hội có nguồn gốc từ nước ngoài hiện hoạt động rất nhiều thì đó là thách thức hiện nay.

Quản lý thông tin trên mạng cũng là vấn đề được khá nhiều vị đại biểu quan tâm, chuyện về ông Hà Vũ không là ngoại lệ. Tuy nhiên, cũng chỉ thoang thoảng trong trao đổi bên chén trà giờ giải lao hay khi bị cánh báo chí “quấy rầy”. Còn việc chính, vẫn là bàn thảo sửa Luật Đất đai trên hội trường. Và không ít tiếng thở dài được nén lại trong hàng chục phát biểu được truyền hình phát thanh trực tiếp cả ngày 17/6. Bởi nói như Phó chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân thì Luật Đất đai là một dự án luật rất quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân, có nhiều nội dung phức tạp và còn nhiều ý kiến khác nhau. Đại biểu - những người đại diện cho dân - đâu chỉ có thể nói riêng ý kiến cá nhân mình.

Thống nhất tiếp tục quy định trong Hiến pháp và Luật Đất đai, đất đai là sở hữu của toàn dân, “nhưng để thể hiện ý chí của toàn dân, Quốc hội là người đại diện, tôi đề nghị Quốc hội nên cho lấy phiếu biểu quyết về vấn đề này”, đại biểu Huỳnh Văn Tiếp (Cần Thơ) đề nghị. Mạnh mẽ hơn, đại biểu Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng) cho rằng nếu cần thiết thì tổ chức trưng cầu dân ý, xem nhân dân có đồng ý với quy định đất đai là sở hữu toàn dân hay không. Nhiều vị đại biểu khác, dù có tiếp tục bàn hay không về sở hữu thì vẫn không giấu được sự xót xa khi thời gian qua việc thu hồi đất ở nhiều nơi khiến nông dân thiệt trăm đường còn một số cán bộ có chức có quyền lại giàu lên nhanh chóng.

Bởi thế, sự cấn cá quanh mấy quy định thu hồi, đền bù, hỗ trợ cứ tăng lên cùng với các phân tích nhiều chiều. Trước khi xin thêm 20 giây sau 7 phút “định mức” đã sử dụng hết để nói cho tròn ý, đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) đã nhấn mạnh đến nỗi thấm thía xót xa của người dân bị thu hồi đất, bởi “thu hồi là thu hồi, có ai hỏi ý kiến của họ đâu”.

Vô số những điều chưa thể yên tâm khác cũng được các vị đại biểu chỉ ra. Theo đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) thì giá đất trong dự thảo lần này vẫn là một điểm nghẽn, thể hiện sự lúng túng của cơ quan soạn thảo, không có bước đột phá căn bản. Các quy định về giá đất trong dự thảo luật vẫn nghiêng nhiều về bảo vệ quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu trong việc áp đặt giá đất.

Ở góc nhìn khác, đại biểu Huỳnh Nghĩa cho rằng việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, là vấn đề nóng nhất hiện nay vì liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Nhưng có dự án sau khi công bố quy hoạch thì việc triển khai thực hiện cầm chừng cũng có dự án công bố xong thì bị bỏ quên nhiều năm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân, nhưng không có ai bị kiểm điểm, xử lý. Nhiều bất cập như vậy nhưng dự thảo luật lại chưa tập trung điều chỉnh một cách căn bản.

Gần như vấn đề lớn nào cũng còn nhiều băn khoăn, thế nên dù rất mong dự án luật này ra đời sớm vẫn có ý kiến đề nghị lùi thời điểm bấm nút sau khi dự thảo Hiến pháp được thông qua vào kỳ họp cuối năm nay.

45 đại biểu đã đăng đàn, còn 17 vị đã đăng ký nhưng không còn thời gian phát biểu là những con số được Phó chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân tổng kết sau một ngày thảo luận. Bà nói, với những vấn đề quan trọng còn có ý kiến khác nhau sẽ gửi phiếu xin ý kiến đại biểu để làm cơ sở cho việc chỉnh lý và sẽ báo cáo lại Quốc hội để xem xét quyết định.

Chỉ còn chưa đầy bốn ngày nữa là dự án luật này sẽ được đưa ra biểu quyết, theo nghị trình. Cũng lắm long đong mới được đưa vào chương trình xây dựng luật của năm nay, và bây giờ dường như gian nan vẫn chưa dừng lại với dự án luật rất đỗi quan trọng này.



File đính kèm