Trong buổi sáng ngày 08/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn Giải phóng có bài “Thúc đẩy hợp tác giữa nghị viện các nước ASEAN”. Bài báo phản ánh: Sáng 7-3, tại Đà Nẵng đã khai mạc Hội nghị khu vực AIPA (ASEAN Inter - Parliamentary Assembly) với chủ đề “Hậu khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới và phát triển bền vững” với sự tham gia của 8 nước thành viên: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam cùng một số tổ chức quốc tế như: Ngân hàng Phát triển Châu Á, Ngân hàng Thế giới, Chương trình phát triển Liên hiệp quốc. Đồng chí Tòng Thị Phóng, Phó Chủ tịch Quốc hội, đại diện phía Việt Nam tại hội nghị.
Hội nghị lần này là một trong các hoạt động của năm Quốc hội Việt Nam đảm nhiệm chức Chủ tịch AIPA (nhiệm kỳ 2009 - 2010) và tập trung vào các nội dung chính như: Tổng quan tình hình, hệ quả của khủng hoảng về kinh tế, xã hội; các biện pháp ứng phó với khủng hoảng của Chính phủ các quốc gia ASEAN - kinh nghiệm và thực tiễn; vai trò của cơ quan lập pháp trong ứng phó với khủng hoảng kinh tế và giai đoạn hậu khủng hoảng; xây dựng pháp luật đối với mục tiêu phát triển bền vững thời kỳ hậu khủng hoảng. Hội nghị lần này thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa nghị viện các nước thành viên ASEAN, góp phần vào các nỗ lực chung nhằm gìn giữ hòa bình, ổn định chính trị, mở rộng hợp tác kinh tế vì lợi ích chung của cộng đồng khu vực và trên thế giới.
2. Báo Tiền phong phản ánh: Sáng nay, Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác thông tin đối ngoại, tuyên truyền biển đảo và phân giới cắm mốc (PGCM) năm 2009 và triển khai công tác năm 2010, do Ban Tuyên giáo T.Ư và Ban Chỉ đạo thông tin đối ngoại tổ chức khai mạc tại TP Đà Nẵng.
Hội nghị triển khai việc tuyên truyền chủ quyền quốc gia tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo Ban Tuyên giáo T.Ư, tuyên truyền Chiến lược biển là một trong những nội dung chủ yếu của công tác báo chí, tuyên truyền năm 2010. Ông Nguyễn Văn Xuân - Phó Vụ trưởng Vụ thông tin đối ngoại và Hợp tác quốc tế (Ban Tuyên giáo T.Ư) cho hay, ngoài tuyến biên giới Việt - Trung (trên bộ) đã được hoàn thành công tác PGCM bằng tuyên bố chung vào tháng 12-2008, thì hai tuyến còn lại giữa Việt Nam - Campuchia; Việt Nam - Lào mới chỉ được đẩy mạnh trong năm 2009. Theo đó, năm 2009, Việt Nam - Campuchia đã xây dựng được 98 vị trí mốc và 6/8 mốc cửa khẩu trải đều hầu hết các tỉnh biên giới. Dự kiến, năm 2012, hai bên sẽ hoàn thành PGCM. Riêng hệ thống mốc phân giới Việt - Lào, theo ông Xuân, nhìn chung năm 2009 triển khai chậm. Đến nay mới hoàn thành một phần trong dự án đề ra. Cụ thể, mới xác định được 191/206 vị trí mốc và mới khởi công được 144 vị trí/158 cột mốc...
Theo Ban Tuyên giáo T.Ư, năm 2010, công tác tuyên truyền ngoài nhiệm vụ tăng cường thông tin về chương trình PGCM, về mối quan hệ biên giới của Việt Nam đối với các nước có chung đường biên với Việt Nam như Trung Quốc, Lào, Campuchia, thì tuyên truyền về chủ quyền quốc gia tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Công tác tuyền truyền tập trung sẽ phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, những nhân tố mới trong kinh tế biển đảo và bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc... Đặc biệt, trong công tác tuyên truyền về vấn đề biên giới giữa Việt Nam – Trung Quốc, cần nêu rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước ta kiên trì thông qua đàm phán hòa bình giải quyết các tồn tại, tranh chấp với các nước hữu quan, kể cả trong vấn đề biển Đông; sẵn sàng trao đổi và hợp tác với các bên hữu quan để giải quyết các vấn đề nảy sinh.
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Ngày 6-3, Sở Nội vụ TP Đà Nẵng tổ chức tọa đàm lấy ý kiến của những người đã được bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo thông qua thi tuyển cạnh tranh công khai. Nhiều ý kiến cùng nhận định mặc dù tỉ lệ bình quân số người dự thi tuyển vào một chức danh lãnh đạo trong ba năm qua là ba người/chức danh nhưng chưa phải là nhiều.
Nhiều người ngại tham gia thi tuyển để làm lãnh đạo vì không thuộc diện quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo, người trong diện quy hoạch thì có tư tưởng mình không thuộc diện quy hoạch số 1 nên có thi cũng không đậu.Có đơn vị như UBND quận Cẩm Lệ khi tổ chức thi tuyển cấp phó trưởng phòng các phòng chuyên môn thuộc UBND quận phải vận động nhiều và đưa việc tham gia dự thi vào tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị mới có số dư trong thi tuyển. Nhiều ý kiến đồng tình trong tiêu chuẩn “cứng” khó đánh giá nhất là phẩm chất đạo đức của thí sinh. Do vậy, để thẩm định tiêu chuẩn này cần tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của tập thể nơi thí sinh đang công tác.
Ông Đặng Công Ngữ, giám đốc Sở Nội vụ, cho biết việc tổ chức lấy ý kiến lần này là một phần trong đề án sở sẽ trình UBND TP ban hành quy định từ năm 2010 trở đi tại các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp của TP. Qua ba năm thí điểm thi tuyển chức danh lãnh đạo, Đà Nẵng có 17 lượt sở ngành, UBND quận huyện tổ chức thi tuyển 58 chức danh lãnh đạo với 163 người tham gia.
4. Báo Nhân dân phản ánh: Ðề án Ðơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (Ðề án 30) đã hoàn thành việc rà soát 256 thủ tục hành chính (TTHC) ưu tiên, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định phương án đơn giản hóa đối với các thủ tục này.Tuy nhiên, để hoàn thành thắng lợi Ðề án 30, khó khăn vẫn đang ở phía trước với nhiệm vụ phải rà soát, đơn giản hóa hoặc loại bỏ những thủ tục không cần thiết đối với hơn 5.400 TTHC còn lại ngay trong năm 2010. Ðiều này không chỉ đòi hỏi sự quyết liệt vào cuộc mà còn cần tinh thần "hy sinh" quyền lợi cục bộ của các bộ, ngành, địa phương, vì lợi ích chung.
Theo kế hoạch của Ðề án 30, ngay trong năm 2010, các bộ, ngành và địa phương phải rà soát 5.400 TTHC còn lại để loại bỏ hoặc đơn giản hóa những TTHC không cần thiết. Ðiều này mang lại lợi ích hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều "người trong cuộc" cho rằng đây là nhiệm vụ nặng nề, cần nỗ lực thật sự mới có thể thực hiện được mục tiêu này. Tổ công tác 30 của Chính phủ đánh giá, mặc dù có sự chỉ đạo quyết liệt từ Chính phủ, nhưng thời gian qua một số bộ, ngành, địa phương chưa thật sự nghiêm túc thực hiện việc rà soát và chưa mạnh dạn cắt bỏ những TTHC đem lại lợi ích cục bộ cho ngành mình. Do vậy, nhiều nơi mặc dù đạt chỉ tiêu đơn giản hóa hơn 90% TTHC nhưng cắt giảm chưa tới 10% chi phí tuân thủ TTHC. Tổ công tác 30 của Chính phủ cảnh báo, nếu các bộ, ngành tiếp tục duy trì cách làm này chắc chắn sẽ không đạt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao.
Chánh Văn phòng, Tổ trưởng Tổ công tác 30 Bộ LÐ-TB và XH Ðào Hồng Lan thừa nhận, Tổ công tác rất khó khăn vì nhiều vụ, cục chuyên môn bảo vệ lợi ích cục bộ nên không muốn cắt, giảm TTHC, thậm chí cương quyết "đấu tranh đến cùng" để bảo vệ TTHC đang thực hiện. Do vậy, vai trò của Bộ trưởng, "Tư lệnh" thật sự của ngành có yếu tố quyết định trong việc chỉ đạo để đạt được mục tiêu đề ra. Theo Chánh Văn phòng, Tổ trưởng Tổ 30 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Quý Kiên, mặc dù không còn phù hợp nhưng nhiều vụ, cục chuyên môn vẫn "nại" ra đủ các lý do để giữ các TTHC đang thực hiện. Ðiều này không chỉ vì lợi ích cục bộ mà còn vì cán bộ đã "quen việc" nên ngại thay đổi. Thậm chí, có trường hợp lãnh đạo bộ đã thông qua việc cắt giảm một số TTHC, nhưng sau khi vụ chức năng có TTHC cắt giảm trình bày về "tính cần thiết" của thủ tục này thì lãnh đạo Bộ lại dao động...
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tổ trưởng Tổ công tác 30 của Chính phủ cho rằng, đây là giai đoạn nước rút của Ðề án 30 và mang tính quyết định sự thành bại của Ðề án. Do vậy, các bộ, ngành phải vào cuộc với tinh thần không ngại va chạm, tập trung tối đa cho mục tiêu còn lại. Tổ công tác cũng cương quyết trả lại hồ sơ của các bộ, ngành không đưa ra chỉ tiêu cụ thể, rà soát mang tính hình thức, kiên quyết xử lý những tư tưởng sử dụng thủ tục cũ để "hành dân" của một số bộ phận cán bộ, công chức. Cùng với việc cắt, giảm TTHC không cần thiết, trong thời gian tới cần chú trọng đặc biệt đến khâu ban hành mới các TTHC vì lợi ích của người dân và doanh nghiệp. Tránh tình trạng ban hành tràn lan TTHC, sau này lại phải thực hiện việc cắt giảm.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Sài Gòn Giải phóng có bài Luật hóa tổ chức chính trị trong doanh nghiệp tư nhân. Bài báo phản ánh: “Sửa đổi Điều 6 của Luật Doanh nghiệp theo hướng quy định bắt buộc việc thành lập và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp”. Đó là ý kiến của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại văn bản Kết luận số 64-KL/TƯ “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”.
Một trong những lý do dẫn tới việc sửa đổi này là hiện có quá ít doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể. Đến nay, cả nước mới có 1,22% doanh nghiệp tư nhân xây dựng được tổ chức Đảng; 10% doanh nghiệp hình thành tổ chức công đoàn; 2% doanh nghiệp có tổ chức Đoàn TNCS và mới có… 9 doanh nghiệp thành lập chi hội phụ nữ.
2. Báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh có bài phản ánh: “Sửa Bộ luật Dân sự: Vướng Hiến pháp”. Bài báo cho biết, theo chương trình của Quốc hội, lần sửa đổi này tập trung vào phần liên quan đến quyền sở hữu tài sản, hợp đồng. Theo các chuyên gia, hiện các quy định về sở hữu trong BLDS đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, Bộ luật Dân sự hiện hành quy định sáu hình thức sở hữu, gồm: sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp; sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp. Nhóm nghiên cứu sửa đổi BLDS cho rằng sự phân chia này chưa hợp lý, vì các hình thức sở hữu khác nhau ở cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu chứ không phải ở chức năng, nhiệm vụ, tính chất của các loại hình tổ chức (pháp nhân). Bên cạnh đó, việc xác định các hình thức sở hữu dựa trên sự liệt kê các loại hình tổ chức cũng không thể đầy đủ. Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhiều loại hình tổ chức khác cũng sẽ xuất hiện. “Nếu BLDS cứ phải chạy theo chúng để sửa đổi cho phù hợp thì không bảo đảm sự ổn định cần thiết của một bộ luật” - nhóm nghiên cứu chỉ rõ.
Về tên gọi, trong khi Hiến pháp, Luật Đất đai quy định hình thức sở hữu toàn dân đối với đất đai thì BLDS 2005 lại quy định về hình thức sở hữu nhà nước đối với đất đai. Theo các chuyên gia của nhóm soạn thảo, quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và nhà nước về sở hữu đất đai về cơ bản là phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của đất nước hiện nay. Tuy nhiên, “các cơ chế, chính sách cụ thể lại chưa phù hợp, dẫn đến vấn đề đất đai không những trở thành vấn đề kinh tế lớn mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp”. Dẫn chứng rõ nhất, theo nhóm nghiên cứu, là chưa làm rõ được bản chất của quyền sử dụng đất. Ở Việt Nam, nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai, thực hiện quyền của mình, nhà nước đã giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định, lâu dài. Như vậy, các chủ thể này chỉ là người sử dụng (người có quyền sử dụng đất). Nhưng ngoài các quyền bình thường như chiếm hữu, sử dụng, người sử dụng đất còn có các quyền khác mang tính định đoạt như cho thuê, thừa kế, chuyển nhượng, góp vốn. “Vậy bản chất của quyền này là gì?”. Theo nhóm chuyên gia, quyền sử dụng đất không còn là một quyền năng bình thường mà đã trở thành một loại vật quyền, phái sinh từ quyền sở hữu đất đai của nhà nước. Tuy nhiên, quan điểm này chưa được thể chế hóa một cách đầy đủ, thỏa đáng trong Luật Đất đai hiện hành.
Khi tranh luận về việc sửa BLDS lần này, một số ý kiến cho rằng nên giữ nguyên quy định về các hình thức sở hữu như hiện nay. Lý do lớn nhất là Hiến pháp đã quy định cụ thể các hình thức sở hữu nên khi Hiến pháp chưa được sửa đổi thì BLDS không được sửa các quy định về sở hữu. Đồng tình với quan điểm này, Phó Chánh án TAND Tối cao Từ Văn Nhũ cho rằng thực tế kể từ năm 1996 đến nay không có vụ việc nào tranh chấp về hình thức sở hữu. “Về mặt lý luận thì có nhiều tranh luận nhưng chưa được tổng kết” - ông Nhũ nói. Trong khi đó, nhóm “cải cách” thì kiến nghị phải sửa ngay, bởi các quy định về hình thức sở hữu hiện nay là “rất bất hợp lý và không phù hợp với thực tiễn khách quan”. Quan trọng hơn là cần phải sửa để bảo đảm quan niệm về sở hữu và các hình thức sở hữu của Việt Nam phù hợp với thông lệ của thế giới. Những người theo quan điểm này đề xuất BLDS chỉ quy định ba hình thức sở hữu gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu riêng (sở hữu của cá nhân, sở hữu của pháp nhân) và sở hữu chung.
Báo cũng có bài “Vi phạm nhãn hiệu: Phạt quá nương tay!”.Bài báo phản ánh: Dự thảo nghị định mới về xử phạt vi phạm trong sở hữu công nghiệp không những giảm mức tiền phạt mà còn nhiều điểm trói chân quản lý thị trường. Theo bài báo, Bộ Khoa học và công nghệ đang soạn thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp thay thế cho Nghị định 106/2006. Một số ý kiến cho rằng dự thảo này đang nới lỏng cho hành vi vi phạm, đồng thời lại gây khó cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý khi muốn tiến hành xử phạt.
Hiện nay, theo Nghị định 106, mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm sẽ bằng một đến năm lần giá trị hàng vi phạm. Do đó mà mức tiền phạt luôn cao hơn giá trị hàng vi phạm (tối đa là phạt 500 triệu đồng). Ví dụ cụ thể, hành vi bán hàng vi phạm quyền về nhãn hiệu hàng hóa mà lô hàng trị giá 20 triệu đồng thì bị phạt 40-60 triệu đồng (hai-ba lần giá trị hàng), trong khi theo dự thảo thì chỉ phạt 12-20 triệu đồng. Cũng vậy, lô hàng trị giá 30 triệu đồng thì hiện bị phạt 60-90 triệu đồng (ba-bốn lần giá trị hàng) nhưng theo dự thảo chỉ phạt 20-30 triệu đồng. Tương tự, nếu hiện nay Nghị định 106 xử phạt mạnh tay với hành vi sản xuất hàng giả mạo nhãn hiệu. Lô hàng vi phạm trị giá 20 triệu đồng đã có thể bị phạt đến 60 triệu đồng thì dự thảo chỉ phạt đến 45 triệu đồng. Lô hàng 30 triệu đồng hiện có thể bị phạt đến 120 triệu đồng, theo dự thảo chỉ phạt đến 75 triệu đồng mà thôi. Lô hàng trên 100 triệu đồng hiện có thể bị phạt “đụng trần” là 500 triệu đồng nhưng theo dự thảo thì lô hàng trên 300 triệu đồng mới có thể bị phạt đến mức trần này.
Chi cục Quản lý thị trường TP.HCM cho biết hiện nay, quản lý thị trường có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa trong khâu lưu thông hàng hóa và kinh doanh thương mại. Theo quy định này thì quản lý thị trường cũng có quyền kiểm tra hàng trong kho của doanh nghiệp sản xuất hay các cửa hàng thương mại. Thế nhưng dự thảo nói rõ quản lý thị trường chỉ xử lý vi phạm trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Điều này đồng nghĩa với việc quản lý thị trường chỉ có thể kiểm tra hàng tại các cửa hàng thương mại chứ không kiểm tra ở doanh nghiệp sản xuất. Chỉ có Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ mới có quyền kiểm tra vi phạm ở doanh nghiệp sản xuất. Chi cục Quản lý thị trường TP.HCM đã góp ý rằng dự thảo này vừa trói chân quản lý thị trường mà cũng khiến Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ mệt mỏi. Bởi lẽ lực lượng thanh tra Sở ít người nên việc kiểm tra cũng khó khăn. Hơn nữa, cơ quan kiểm tra xong, thấy vi phạm thì cũng không có kho bãi chuyên dụng như quản lý thị trường để lưu giữ hàng vi phạm.
Chi cục Quản lý thị trường TP.HCM cũng cho biết Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định hành vi xâm phạm quyền về sở hữu trí tuệ sẽ bị xử phạt hành chính nếu hành vi đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội. Ngoài ra, trường hợp người vi phạm đã được chủ nhãn hiệu độc quyền, chủ kiểu dáng độc quyền gửi văn bản yêu cầu chấm dứt vi phạm mà không chịu chấm dứt thì cũng có thể bị xử phạt hành chính. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ ngày 1-1-2010 cũng quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội thì bị xử phạt. Thế nhưng luật này không quy định về trường hợp xử lý vi phạm sau khi gửi thông báo yêu cầu chấm dứt vi phạm. Do đó mà từ ngày 1-1-2010 đến nay, quản lý thị trường TP đã tiếp nhận một vài đơn yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu đối với nhãn hiệu hàng hóa nhưng không thể thực hiện được. Bởi lẽ cơ quan này yêu cầu doanh nghiệp cung cấp chứng cứ chứng minh việc “gây thiệt hại” nhưng doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý đều không biết phải chứng minh như thế nào.
Báo cũng có bài “Bị tước thẻ, cựu luật sư kiện Bộ Tư pháp”. Bài báo phản ánh: Tòa Hành chính TAND tỉnh Bạc Liêu vừa thụ lý đơn khởi kiện của ông Ngô Minh Sơn, nguyên luật sư Đoàn Luật sư tỉnh này, đối với quyết định thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của Bộ Tư pháp. Theo đó, ông Sơn yêu cầu tòa buộc Bộ Tư pháp hủy bỏ quyết định trên, tiến hành cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng và bồi thường thiệt hại tổng cộng 84 triệu đồng.
Theo hồ sơ, trước đây ông Sơn là quyền trưởng phòng Phòng Công chứng nhà nước số 1 tỉnh Bạc Liêu. Tháng 7-1998, ông bị TAND tỉnh Bạc Liêu phạt 12 tháng tù treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội nhận hối lộ. Thụ án xong, đến tháng 7-2001, ông được chánh án TAND tỉnh Bạc Liêu ra quyết định xóa án tích. Tháng 3-2006, ông Sơn được kết nạp làm luật sư tập sự tại Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu. Sau 20 tháng tập sự, ông được Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Sau đó, ông làm đơn xin gia nhập vào Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu nhưng ban chủ nhiệm đoàn từ chối. Không đồng ý, ông Sơn đã khiếu nại lên Bộ Tư pháp đề nghị can thiệp để bảo vệ quyền lợi cho ông. Sau nhiều lần có ý kiến của Bộ, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu vẫn giữ nguyên quan điểm là không nhận ông Sơn và đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư đã cấp cho ông. Tháng 4-2009, Bộ Tư pháp đã ra quyết định trên để thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của ông Sơn.
Theo Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu Vưu Văn Kía, vào thời điểm đầu năm 2006, trường hợp của ông Sơn đủ điều kiện để tham gia tập sự hành nghề luật sư, đủ điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư theo Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Vì thế đoàn mới nhận ông vào tập sự rồi đề nghị Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ. Nhưng sau đó, Luật Luật sư năm 2006 ra đời (có hiệu lực vào ngày 1-1-2007) thay thế cho Pháp lệnh Luật sư. Theo điểm c khoản 4 Điều 17 luật này, ông Sơn từng bị kết án theo khoản 1 Điều 279 BLHS, là tội phạm nghiêm trọng (khung hình phạt cao nhất đến bảy năm tù) nên dù đã được xóa án tích cũng không được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Căn cứ vào khoản 3 Điều 20 Luật Luật sư, đoàn không chấp nhận cho ông Sơn trở thành thành viên, đồng thời đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi chứng chỉ đã cấp.
Không đồng ý, ông Sơn khiếu nại, cho rằng từ năm 2001 ông đã được xóa án tích nên theo quy định tại Điều 63 BLHS thì ông xem như chưa từng bị kết án. Mặt khác, Luật Luật sư có hiệu lực vào đầu năm 2007, không có giá trị hồi tố nên không thể thu hồi chứng chỉ hành nghề của ông. Giải quyết, Bộ Tư pháp cho biết tại đợt cấp chứng chỉ hành nghề luật sư cho ông Sơn (tháng 11-2008), cán bộ thẩm tra cho rằng trường hợp phạm tội của ông Sơn thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng và đã xóa án tích, đủ điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề luật sư. Tuy nhiên, sau khi Đoàn Luật sư tỉnh Bạc Liêu có ý kiến, Vụ Bổ trợ tư pháp đã tiến hành xác minh lại. Kết quả cho thấy trường hợp phạm tội của ông Sơn thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, theo Luật Luật sư không được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư nên Bộ Tư pháp ra quyết định thu hồi chứng chỉ là hoàn toàn đúng.
Báo cũng có bài Rối với các thời điểm khác biệt. Bài báo phản ánh: Liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận nhà đất, hai bộ đưa ra hai thời điểm khác nhau. Đến giờ, có ba mốc thời gian khác nhau liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận cho nhà, đất.
Mốc 1-7-2004. Đây là thời điểm Luật Xây dựng có hiệu lực thi hành. Cho rằng “do chưa có luật nên người dân mới vi phạm”, luật này xí xóa cho những trường hợp lỡ xây nhà trái phép trước 1-7-2004. Căn cứ vào đó, Thủ tướng đã ban hành Quyết định 39/2005 cho phép nhiều nhà xây trái phép trước 1-7-2004 được tồn tại. Những trường hợp vi phạm sau đó buộc phải tháo dỡ. Trên cơ sở này, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định 54/2007 đồng ý cấp giấy chủ quyền cho nhà trái phép trước 1-7-2004.
Mốc 1-7-2006. Đây là thời điểm Luật Nhà ở có hiệu lực. Để phù hợp với quy định của luật này, Quyết định 54/2007 của UBND TP.HCM chỉ đồng ý cấp giấy chứng nhận cho nhà trái phép sau ngày 1-7-2006 với điều kiện vi phạm đã được xử lý và được thực hiện xong.
Mốc 1-5-2009. Đây là thời điểm Nghị định 23/2009 (về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng…) có hiệu lực thi hành. Khi ban hành Thông tư hướng dẫn số 24/2009, Bộ Xây dựng đã lấy mốc này để làm căn cứ xử lý những công trình vi phạm trước đó mà chưa được xử lý dứt điểm. Điều 15 của thông tư này cho phép nhà phù hợp quy hoạch được giữ nguyên phần diện tích vi phạm (không phải tháo dỡ). Đành rằng Thông tư 24 chỉ quy định việc xử lý vi phạm xây dựng nhưng có cần thiết phải đặt ra thêm mốc 1-5-2009 cho chỏi với Luật Xây dựng và Luật Nhà ở? Câu trả lời theo tôi là không.
Thứ nhất, tiếng là riêng biệt nhưng kết quả xử lý vi phạm có liên quan đến công tác cấp giấy chứng nhận nhà đất. Bởi như phân tích của giám đốc Sở Xây dựng TP.HCM trong bài “Nhà xây trái phép trước 1-5-2009: Đã có hướng ra?”, báo Pháp Luật TP.HCM ngày 4-3, đó là “nếu công trình đã được cho tồn tại thì phải được xét cấp giấy chứng nhận, nếu không thì cho tồn tại làm gì”. Khi Nghị định số 90/2006 và gần đây là số 88/2009 (về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở) chỉ quy định việc cấp giấy chứng nhận cho nhà xây trái phép trước 1-7-2004, hoặc trước 1-7-2006 thì sao Thông tư 24 còn đưa ra thêm mốc 1-5-2009 cho giẫm lên nhau?
Thứ hai, về mặt “đẳng cấp” thì nghị định hay thông tư không được phép vượt trên luật. Dù có thể sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thực tiễn nhưng khi luật đã định ra thời điểm nhất định thì Nghị định 23 và Thông tư 24 không được quyền quy định khác hơn.
Về nguyên tắc, nếu căn nhà đã được các cơ quan chức năng cho tồn tại thì các quận, huyện đã có đủ căn cứ cấp giấy, bất kể thời điểm vi phạm. Vậy nên dự liệu của Sở Xây dựng (tha nhà trái phép trước 1-5-2009 để người dân được cấp giấy chủ quyền) xét về lý, tình đều không sai. Tuy nhiên, vẫn phải thấy rằng khi công tác quản lý nhà đất vốn phức tạp, việc mạnh ai nấy ra quy định dễ khiến sự việc trở nên rối rắm hơn. Thay vì làm cho pháp luật đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, sự thiếu phối hợp từ trên cao dễ gây “hoa mắt” cho không chỉ người dân mà cả cấp thực hiện. Nếu không kịp thời khắc phục thì với việc có thêm mốc 1-5-2009 do chính quyền phải chạy theo sau để xử lý nhà trái phép, ai dám đoan chắc sẽ không có thêm các mốc thời điểm mới? Trước mắt, cứ thấy tiếc cho Bộ Tài nguyên và Môi trường đã không lưu ý thực tế “chạy theo sau” nói trên và tham chiếu thêm Thông tư 24 để các văn bản cấp giấy mới sát hợp hơn.
3. Báo Hà Nội Mới cò bài “Vi phạm Luật Đất đai, chậm nộp phạt 10 ngày sẽ bị cưỡng chế”. Bài báo phản ánh: (HNM) - Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa hoàn thành dự thảo Thông tư quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Theo đó, một hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa hoàn thành dự thảo Thông tư quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Theo đó, một hành vi vi phạm chỉ bị xử phạt hành chính một lần. Trường hợp vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện dù đã bị người có thẩm quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Nếu một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm mà từng hành vi đều bị phạt tiền thì sẽ bị phạt tiền theo mức phạt đối với từng vi phạm và phải nộp số tiền phạt tính bằng tổng số tiền phạt của tất cả các vi phạm. Người bị xử phạt phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được văn bản. Quá thời hạn quy định trên mà người bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt sẽ bị cưỡng chế.