I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Trang VnExpress có bài Công bố kết quả tín nhiệm 47 chức danh chủ chốt. Bài báo đưa tin: 8h sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt. Theo đó, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang được 330 phiếu tín nhiệm cao, 133 tín nhiệm và 28 tín nhiệm thấp trong tổng số 492 đại biểu có mặt.
Số phiếu tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp đối với Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng là 328; 139 và 25; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 210; 122; 160; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường là 176; 289; 36 (chi tiết kết quả kèm theo Điểm báo này).
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Điểm sáng “10 phút tiếp dân”. Bài báo phản ánh: Chương trình “10 phút tiếp dân” được thực hiện nhằm phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, bán đấu giá tài sản, công chứng…, tạo cầu nối giữa người dân và cơ quan quản lý nhà nước. Chương trình phát sóng vào lúc 8 giờ sáng thứ sáu hằng tuần trên kênh HTV9 và phát lại lúc 23g40 trên HTV9 tuần tiếp theo.
Được xây dựng từ sáng kiến của tập thể đoàn viên tại Sở Tư pháp TP.HCM, kết hợp với Đài truyền hình TP, trong vòng 10 phút, chương trình sẽ giải quyết một trường hợp thắc mắc, lúng túng của người dân về thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch, kết hôn, khai sinh, khai tử… Chọn hẳn “người thật việc thật”, mỗi số của chương trình được xem như một bài học trực quan sinh động về từng bước giải quyết giấy tờ, thủ tục. Qua đó, mọi người có thể cùng xem và ứng dụng ngay vào trường hợp của mình.
Ông Nguyễn Đức Thịnh – phó chánh văn phòng, bí thư Đoàn Sở Tư pháp, người đã khởi xướng và gắn bó với chương trình ngay từ những ngày đầu chập chững – cho biết: “Nhu cầu của người dân rất nhiều, không tài nào chúng tôi có thể cầm tay chỉ việc được hết. Nói nôm na, nếu chỉ cho người dân đường, bột sơ sài thì ai cũng mơ hồ, không sao làm được cái bánh đúng cách. Chính vì thế “10 phút tiếp dân” như một cuốn cẩm nang hướng dẫn cụ thể, dễ hiểu, người dân và cả các cán bộ tư pháp có thể làm ra được những cái bánh ngon hơn, đúng tiêu chuẩn”.
Tiến thêm một bước, không chỉ tư vấn về thủ tục, giấy tờ, chương trình đã bắt đầu mở rộng ra về mặt trợ giúp pháp lý cho trẻ vị thành niên phạm tội ngay từ quá trình điều tra đến xét xử, hoặc tư vấn pháp luật miễn phí cho người có công với cách mạng nhưng hoàn cảnh khó khăn…
Thời gian sắp tới, chương trình đang có kế hoạch kết hợp với các cơ quan khác như thanh tra, thi hành án, tòa án và cả các luật sư để thực hiện chương trình tư vấn giải quyết các khiếu nại, tố cáo đất đai theo tinh thần nghị quyết trung ương 5. “Đây là một trong những vấn đề người dân có rất nhiều thắc mắc, bức xúc cũng như tranh chấp nên chúng tôi sẽ cố gắng phối hợp thực hiện rõ ràng hết mức có thể, từ giải thích cho dân hiểu đến quy trình khởi kiện, thủ tục thi hành án…” – ông Thịnh cho biết.
2. Báo Người lao động Online có bài Nên miễn phí đổi lại CMND không có tên cha mẹ. Bài báo phản ánh: Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông Trần Thế Quân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Công an, cho biết Hội đồng thẩm định dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định 170/2007 về chứng minh nhân dân (CMND) vừa diễn ra tại Bộ Tư pháp đã đi tới thống nhất về việc bỏ quy định bắt buộc phải ghi họ tên cha mẹ trên CMND. Việc sửa đổi Nghị định 170 sẽ được thực hiện theo thủ tục rút gọn và sớm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong thời gian tới. Theo ông Quân, việc cấp CMND mới 12 số thay cho CMND cũ 9 số bắt đầu thực hiện thí điểm từ tháng 9-2012 trên địa bàn 4 quận, huyện ở Hà Nội gồm Thanh Xuân, Hoàng Mai, Tây Hồ và Từ Liêm.
Việc thí điểm cấp CMND mới có phần ghi họ tên cha mẹ công dân tại Hà Nội đã phải tạm dừng lại sau khi Thủ tướng Chính phủ có ý kiến cầu Bộ Công an sớm soạn thảo nghị định theo hướng bỏ quy định bắt buộc có phần họ tên cha mẹ trên CMND. Đã có khoảng 45.000 người dân được cấp CMND mới có phần ghi họ tên cha mẹ công dân. Tới đây, mục thông tin về cha mẹ trên mặt sau phôi CMND sẽ được xóa bỏ, các thông tin khác vẫn được giữ nguyên.
Trước lo ngại về việc khi Chính phủ ban hành nghị định mới thay thế Nghị định 170, người dân tại các quận, huyện trên sẽ đồng loạt đi làm thủ tục xin cấp đổi lại CMND mới, ông Trần Thế Quân khẳng định chuyện này khó xảy ra. “Không phải ai cũng phản đối chuyện đưa tên cha mẹ lên CMND. Tôi nghĩ sẽ chỉ có một số người không thích thì đi đổi lại thôi” - ông Quân nói. Đối với những CMND 12 số đã cấp thì tính pháp lý vẫn được đảm bảo. Trường hợp người dân đến làm thủ tục xin cấp đổi lại CMND mới không có họ tên cha mẹ thì vẫn được giữ nguyên 12 số.
TS Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp, cho biết khi thẩm định dự thảo nghị định thay thế Nghị định 170 đã có một số ý kiến cho rằng việc cấp CMND mới có họ tên cha mẹ là trái với Bộ Luật Dân sự, Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam ký kết tham gia nên không được sự đồng thuận trong xã hội. Chính vì thế, tới đây những người dân muốn cấp đổi lại CMND không có họ tên cha mẹ thì ngành công an nên miễn phí cho họ.
Trong khi đó, Thiếu tướng Trần Văn Vệ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục 7- Bộ Công an), khẳng định việc cấp CMND mới có phần ghi họ tên cha mẹ công dân được ngành công an thực hiện theo đúng nghị định của Chính phủ, không có gì phải đúc rút kinh nghiệm cả.
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Trần Thế Quân cho biết sắp tới Bộ Công an sẽ hoàn thiện Đề án quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để trình Chính phủ phê duyệt. Trong đó xác định rõ việc 12 số trên CMND mới chính là mã số định danh cá nhân. Sau này, các bộ, ngành, địa phương sẽ đều phải cập nhật, trao đổi thông tin về công dân vào hệ thống cơ sở dữ liệu do ngành công an thay mặt Chính phủ quản lý để giảm bớt các thủ tục hành chính, giấy tờ công dân.
3. Báo Dân Việt có bài Vụ "Dàn xếp đấu giá đất, trục lợi tiền tỷ": Đề nghị ngừng công nhận quyền sử dụng đất. Bài báo đưa tin: Liên quan đến vụ “Dàn xếp đấu giá đất, trục lợi tiền tỷ” xảy ra ở xã Hương Vinh (thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế) mà Báo NTNN phanh phui, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản (DVBĐGTS) tỉnh Thừa Thiên - Huế vừa có văn bản báo cáo cơ quan chủ quản là Sở Tư pháp tỉnh về vụ việc này.
Bản báo cáo này cho biết, Trung tâm DVBĐGTS tỉnh đã có văn bản gửi các cơ quan chức năng về việc đề xuất ngừng công nhận quyền sử dụng 15 lô đất được tổ chức đấu giá vào ngày 17.5 tại xã Hương Vinh. Bản báo cáo cũng xác nhận ông Nguyễn Lê Khuyên (đấu giá viên của trung tâm) là người đã trực tiếp cung cấp danh sách những người tham gia đấu giá đất cho các ông Huỳnh Mạnh và Hoàng Dũng (cán bộ UBND xã Hương Vinh) khi phiên đấu giá chưa diễn ra. Nhờ được cung cấp danh sách này từ sớm nên những cán bộ trên đã có điều kiện tổ chức dàn xếp dìm giá đất để trục lợi.
Một cán bộ của Trung tâm DVBĐGTS tỉnh Thừa Thiên- Huế cho biết: Chiều 16.5, khi thấy một số cán bộ ở xã Hương Vinh đến gặp ông Khuyên yêu cầu cung cấp danh sách khách hàng tham gia đấu giá, cán bộ này bảo ông Khuyên không nên cung cấp danh sách trên vì sẽ làm lộ bí mật. Tuy nhiên, ông Khuyên không những không tiếp thu ý kiến mà còn nặng lời đối với vị cán bộ này.
Ông Nguyễn Trọng Khán- Giám đốc Trung tâm DVBĐGTS tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết: Trong quá trình đấu giá 15 lô đất ở Hương Vinh, nhiều thành viên hội đồng đấu giá nhận được thông tin về việc có hiện tượng dàn xếp đấu giá để trục lợi. Lúc này, nhiều thành viên trong hội đồng đề nghị ông Nguyễn Lê Khuyên hoãn cuộc đấu giá nhưng ông Khuyên không đồng ý. Ông Khuyên cho rằng những người tham gia đấu giá thực hiện tốt nội quy và chưa có chứng cứ chứng minh việc dàn xếp để chia chác.
Theo ông Khán, tại cuộc họp mới đây, tập thể đấu giá viên của Trung tâm DVBĐGTS tỉnh đều thống nhất quan điểm, khi nhận được những thông tin về việc dàn xếp đấu giá nêu trên, ông Khuyên nên báo cáo chủ tài sản và cho tạm dừng cuộc đấu giá để tổ chức lại vào thời gian và địa điểm thích hợp. Tuy nhiên, quan điểm này của các đấu giá viên vẫn không được ông Khuyên chấp nhận.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khốn khổ vì bị giữ giấy tờ - Bài 1: Có án cũng chịu! Bài báo phản ánh vụ việc của bà Lương Mỹ Anh, ngụ phường 7, quận 10 (TP.HCM): Cuối năm 1996, bà Anh đưa giấy tờ nhà cho người anh rể để nhờ ông này làm thủ tục vay Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Hoa - Chi nhánh Trần Hưng Đạo hơn 300 triệu đồng. Đến tháng 10-1999, bà Anh đã thanh toán toàn bộ vốn và lãi cho ngân hàng thông qua người anh rể. Một thời gian sau, bà Anh bất ngờ khi được cơ quan điều tra Công an TP.HCM thông báo bà có vay của Ngân hàng Việt Hoa 1,7 tỉ đồng qua việc thế chấp căn nhà của bà. Bà Anh trình bày rằng mình không hề vay số tiền nói trên. Sau đó, cơ quan chức năng xác định người anh rể (đã bỏ trốn) dùng giấy tờ nhà của bà Anh và giả mạo chữ ký của bà để vay Ngân hàng Việt Hoa 1,7 tỉ đồng.
Được xác nhận là không liên quan đến vụ vay tiền trên, bà Anh khởi kiện Ngân hàng Việt Hoa ra TAND quận 5 (TP.HCM) để đòi lại bản chính giấy tờ nhà. Tòa xác minh thì thấy trước đó Ngân hàng Việt Hoa đã đem giấy tờ nhà của bà Anh “tái thế chấp” cho Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TP.HCM để vay tiền. Tháng 9-2005, TAND quận 5 đưa vụ kiện ra xử sơ thẩm, tuyên buộc Ngân hàng Việt Hoa và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng có trách nhiệm trả lại giấy tờ nhà cho bà Anh.
Sau khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, bà Anh đã làm đơn yêu cầu THA. Tháng 10-2006, cơ quan THA dân sự quận 5 đã ra quyết định THA. Phía Ngân hàng Việt Hoa và Ngân hàng Nhà nước không thực hiện việc giao lại giấy tờ nhà cho bà Anh theo quyết định của cơ quan THA. Phía Ngân hàng Việt Hoa thì nói Ngân hàng Nhà nước đang giữ giấy tờ, phía Ngân hàng Nhà nước thì bảo sẽ giải chấp trả giấy tờ nhà khi nào Ngân hàng Việt Hoa trả đủ nợ vay...
Không biết làm sao, cơ quan THA dân sự quận 5 bèn gửi công văn đến UBND quận 10 đề nghị hủy bản cũ giấy tờ nhà để cấp lại bản mới cho bà Anh. Tuy nhiên, UBND quận 10 chưa thể cấp lại giấy tờ nhà vì UBND TP.HCM yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các cơ quan liên quan làm rõ các vấn đề liên quan đến căn nhà. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TP.HCM cũng có văn bản đề nghị UBND quận 10 tạm thời chưa cấp giấy tờ mới cho bà Anh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xử lý nợ của Ngân hàng Việt Hoa.
Một chấp hành viên Chi cục THA dân sự quận 5 cho biết: Luật THA dân sự cho phép cơ quan THA tiến hành cưỡng chế buộc người phải THA trả giấy tờ nhưng lại thiếu quy định về các chế tài cụ thể. Hướng dẫn cũng không có. Do đó, khi Ngân hàng Việt Hoa và Ngân hàng Nhà nước không chịu giao trả giấy tờ nhà cho bà Anh, cơ quan THA không biết phải cưỡng chế bằng cách nào, dùng biện pháp chế tài gì để gây sức ép... Chính vì vậy mà vụ THA của bà Anh cho đến nay vẫn đang bế tắc, chưa có hướng gỡ.
5. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Đã đình chỉ thi hành án lại ra quyết định cưỡng chế? Bài báo phản ánh: Ông Ngô Văn Yên, SN 1954, trú tại xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội và bà Nguyễn Thị Lợi, SN 1957, chung sống 14 năm và có 3 mặt con thì ly hôn. Khi ấy, TAND huyện Đông Anh công nhận sự thuận tình ly hôn của vợ chồng này. Dù ông Yên muốn chăm sóc 3 đứa trẻ nhưng bà Lợi nhất quyết giành quyền nuôi con. Ông Yên từng nghĩ, mẹ xót con cũng là lẽ thường và nhường bà Lợi nuôi 2 đứa nhỏ (Ngô Thái Quyền, Ngô Tiến Lực). Ông cưu mang con gái cả, Ngô Minh Tuyết. Để 3 mẹ con bà Lợi có chỗ trú thân, ông đồng ý cắt 90m2 đất. Khi bà Lợi lần lượt “thay” 2 đời chồng khác, 2 cậu con trai xách quần áo, tha thiết xin về ở cùng bố. Chỉ ít lâu sau, bà Lợi lại “lôi” chồng cũ ra tòa để “trả con”. Lực chính thức về sống cùng bố, còn Quyền, năm 1994, qua đời vì tai nạn giao thông.
Đáo tụng đình lần 2 chưa chấm dứt mối duyên nợ giữa ông Yên và bà Lợi. Lần thứ 3, năm 2011, họ cùng hầu tòa khi bà Lợi khởi kiện để đòi lại 81m2 đất (trong 90m2 đất trên) và tài sản trên đất. HĐXX ngày 11-8-2011 của TAND huyện Đông Anh có Bản án số 19/DSST chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn và buộc ông Yên trả đất, tài sản trên đất cho vợ cũ. Bị đòi đất và thua kiện, ông Yên còn phải trả án phí lên tới hơn 60 triệu đồng.
Ông Yên kháng cáo và lần thứ 4 hầu tòa, thế thắng vẫn nghiêng về bà Lợi. Phiên xử ngày hôm ấy, TAND TP Hà Nội tuyên sửa bản án sơ thẩm của TAND huyện Đông Anh. Nhưng tòa cấp phúc thẩm vẫn buộc ông Yên phải trả lại vợ cũ quyền sử dụng 81m2 đất trên. Bà Lợi còn được tạm sử dụng phần diện tích đất công liền kề thửa đất trên cho đến khi có quyết định thu hồi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Nguyên đơn cũng được sử dụng tài sản trên đất và phải thanh toán trị giá tài sản của ông Yên trên đất (8,9 triệu đồng). HĐXX cấp phúc thẩm còn tuyên ông Yên không phải chịu án phí phúc thẩm; được miễn 50% án phí sơ thẩm.
Theo yêu cầu của bà Lợi, ngày 24-4-2012, Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Đông Anh có Quyết định thi hành án số 09/QĐ-CCTHA. Vài tháng sau, bà Lợi rút đơn yêu cầu thi hành án và Chi cục THADS huyện Đông Anh ra Quyết định số 55/QĐ-CCTHA ngày 27-8-2012 đình chỉ thi hành án. Do đó, ông Yên cũng không yêu cầu thi hành án đối với phần tòa tuyên bà Lợi phải trả ông Yên trị giá tài sản trên 81m2 đất.
“Bất thình lình”, ông Yên nhận được Quyết định số 05/QĐ-CCTHA ngày 8-5-2013 về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản mảnh đất trên. Ông Yên khiếu nại và Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Đông Anh thừa nhận, khi bà Lợi tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục đã ra quyết định đình chỉ thi hành. Nhưng sau đó, bà Lợi khiếu nại quyết định đình chỉ thi hành án này. Khi Cục THADS TP Hà Nội giải quyết việc liên quan đến nội dung khiếu nại của bà Lợi, Chi cục THADS huyện Đông Anh nhận thấy việc ra quyết định đình chỉ thi hành án là thiếu căn cứ nên đã ra quyết định thu hồi Quyết định đình chỉ số 55/QĐ-CCTHA ngày 27-8-2012; đồng thời, tiếp tục thực hiện Quyết định số 09/QĐ-CCTHA. Ông Yên không chấp hành nên cơ quan thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế.
Luật sư Phạm Đắc Hải, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, khẳng định, Điều 52 Luật THADS nêu rõ, việc thi hành án đương nhiên kết thúc nếu đã có quyết định đình chỉ thi hành án. Do đó, việc Chi cục THADS huyện Đông Anh ra quyết định cưỡng chế thi hành đối với tài sản mà Chi cục đã có quyết định đình chỉ là cố tình làm trái pháp luật. Điều 50 Luật Thi hành án dân sự quy định, cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi hành án khi đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án. Trong trường hợp này, Quyết định số 55/QĐ-CCTHA ngày 27-8-2012 căn cứ vào Biên bản về việc người được thi hành án tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án do chấp hành viên Chi cục THADS huyện Đông Anh lập ngày 20-8-2012. Như vậy, không thể nói rằng, thiếu căn cứ đình chỉ thi hành án. “Khi cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án do người được thi hành án có văn bản tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự không tiếp tục việc thi hành án thì sau đó họ có quyền tự thi hành với nhau, nhưng không có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành lại” – ông Hải phân tích thêm.
6. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Tội phạm vi thành niên có chiều hướng gia tăng: Quy định về “tuổi trẻ em” đang làm khó cơ quan pháp luật. Bài báo phản ánh: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an, tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%.
Từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện. Một trong những bất cập “khó lý giải” của hệ thống pháp luật hiện hành là qui định về độ tuổi của người chưa thành niên. Mỗi luật mỗi kiểu, thậm chí ngay cùng một luật cũng có sự “nhầm”, khiến cho việc áp dụng rối rắm, thiếu thống nhất và gây nên nhiều hệ lụy. Trong các văn bản hiện hành có nói về độ tuổi, nhiều thuật ngữ được sử dụng như: người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi), người thành niên (người đủ 18 tuổi), trẻ em (dưới 16 tuổi), người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi…
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) theo Bộ luật Hình sự là ví dụ. Độ tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng, là dấu hiệu không thể thiếu trong yếu tố chủ thể của tội phạm bên cạnh dấu hiệu “năng lực TNHS”. Điều 12 Bộ luật Hình sự qui định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, tuổi chịu TNHS được tính theo hai mức: Từ đủ 14 đến dưới 16 và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, qui định này lại thiếu đồng nhất với tuổi chịu TNHS của một số tội danh cụ thể. Khoản 1 Điều 115 Bộ luật Hình sự qui định về Tội giao cấu với trẻ em lại nêu: “1.Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm...”. “Người đã thành niên” được hiểu là người 18 tuổi, do đó, nếu một người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu TNHS?
Sự “vênh” nhau trong cùng bộ luật đã khiến những người “không là trẻ em nhưng chưa thành người lớn” này có thể “thoát” tội Giao cấu với trẻ em?
Hệ thống pháp luật hiện hành có hai cách tính tuổi: Tuổi “từ” và tuổi “từ đủ”. Đối với trách nhiệm hình sự thì luôn tính tuổi “đủ”, tức là phải đủ ngày, đủ tháng, đủ năm sinh, nhưng đối với lĩnh vực hôn nhân gia đình thì lại tính tuổi “từ đủ”, tức là nếu nói “từ 20 tuổi”, thì chỉ cần 19 tuổi 1 ngày là được. Ví dụ như tuổi kết hôn, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên được đăng ký kết hôn, nghĩa là người nam chỉ cần bước qua lần sinh nhật thứ 19 một ngày và người nữ chỉ cần bước qua sinh nhật lần thứ 17 một ngày là hợp lệ. Nhưng, tương tự như sự “vênh” nhau về tuổi chịu TNHS ngay cùng Bộ luật Hình sự nói trên, cũng ngay trong Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) thì độ tuổi kết hôn và ly hôn cũng khác nhau. Đó là, người nữ chỉ cần “từ 18 tuổi” trở lên là đủ điều kiện kết hôn, nhưng muốn ly hôn, thì lại phải “đủ 18 tuổi”. Vì 18 tuổi mới được xem là người thành niên, mới đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình tham gia các giao dịch dân sự theo qui định của Bộ luật Dân sự. Dẫn đến, nhiều trường hợp sau khi cưới, thấy cuộc hôn nhân không hạnh phúc, người vợ đưa đơn ra tòa ngay nhưng tòa lại phải hướng dẫn người vợ hoặc nhờ người giám hộ theo pháp luật, hoặc chờ “đủ tuổi”, đủ năng lực hành vi dân sự rồi mới giải quyết ly hôn được. Thành thử, pháp luật Việt Nam cho phép người “chưa đủ năng lực hành vi dân sự” được kết hôn nhưng lại “treo” quyền ly hôn trong một thời gian!
Luật HN&GĐ cũng quy định tuổi được nhận con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn). Còn Luật Nuôi con nuôi lại xác định người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi (người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi cũng được nhận là con nuôi nếu thuộc trường hợp “được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi”). Như vậy, cùng nói về tuổi nhận con nuôi nhưng hai luật này khác nhau
Còn theo Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, trẻ em có thể được nhận làm con nuôi là những người dưới 18 tuổi! LS Nguyễn Thủy Nguyên, Đoàn LS Hà Nội cho biết đã từng tư vấn cho một trường hợp xin nhận nuôi con nuôi 15 tuổi 3 tháng. Theo LS Nguyên, trước sự “vênh” nhau của hai luật này, nên áp dụng qui định của Luật Nuôi con nuôi vì đây là luật chuyên ngành quy định về việc nuôi con nuôi, đồng thời, độ tuổi này cũng phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Hay Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005 qui định người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường; người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu (trừ trường hợp quy định tại Điều 621).
Đối chiếu theo những qui định này, người dưới 15 tuổi thì được cha mẹ bồi thường, từ đủ 18 tuổi thì tự bồi thường, còn những người ở “khoảng giữa” - từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì ai phải bồi thường?
Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989 và Việt Nam đã phê chuẩn năm 1990, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Trên cơ sở đó trẻ em có các quyền cơ bản sau: Quyền được có họ tên và quốc tịch, quyền được bảo vệ và chăm sóc, quyền không bị cách ly khỏi cha mẹ, quyền được học hành, quyền được sống trong môi trường lành mạnh, quyền được giải trí, quyền được thông tin, quyền được tổ chức hội họp, quyền được tự do bày tỏ ý kiến, quyền được bảo vệ chống lại sự ngược đãi, quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình dục…
Tuy nhiên, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 của Việt Nam lại quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với Công ước quốc tế về quyền trẻ em về vấn đề xác định độ tuổi của trẻ em khác nhau nên việc bảo vệ các quyền của trẻ em hiểu theo pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế cũng mâu thuẫn. Điều này cũng dẫn đến những “hiểu nhầm” như cho rằng Việt Nam có sự “lạm dụng” trẻ em (với người từ 16 đến dưới 18 tuổi), nhưng theo pháp luật Việt Nam thì đối tượng này không còn là trẻ em.
Những “bất nhất” trên của hệ thống pháp luật hiện hành dẫn đến nhiều rắc rối pháp lý, đơn giản từ việc hiểu những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 là người chưa thành niên, nhưng cũng không là trẻ em, thì thuộc “đối tượng” nào? Những ví dụ nêu trên cũng cho thấy, cần có qui định thống nhất về độ tuổi với người chưa thành niên, hoặc theo hệ thống pháp luật quốc gia (dưới 16 tuổi) hoặc theo pháp luật quốc tế (trẻ em là người từ dưới 18 tuổi, người thành niên là người đủ 18). Từ đó, có cách hiểu và áp dụng thống nhất, làm cơ sở cho các quy định trong các ngành luật về quyền của trẻ em và trách nhiệm pháp lý.