Điểm tin báo chí sáng ngày 31 tháng 5 năm 2013

31/05/2013
Trong ngày 30/5 và đầu giờ sáng ngày 31/5/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
   

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Trang tin điện tử Quốc hội đưa tin: Ngày 30-5-2013, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường thảo luận về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2012; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân điều khiển phiên họp.

Trong ngày làm việc, đã có 40 đại biểu Quốc hội của 38 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phát biểu. Các ý kiến thảo luận tập trung vào những nội dung sau:

 - Nguyên nhân các chỉ tiêu kinh tế - xã hội không đạt được và những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế trong năm 2012;

 - Kết quả các chỉ tiêu kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013;

 - Các chính sách tài khóa, tiền tệ mà Chính phủ thực hiện; hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước;

 - Tình hình nợ xấu, hàng tồn kho, thị trường bất động sản, thị trường vàng…và các giải pháp tháo gỡ khó khăn;

 - Thực trạng khó khăn của doanh nghiệp và các giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh;

- Các chính sách phát triển nông nghiệp; chương trình xây dựng nông thôn mới;

- Các chính sách bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế biển;

- Chất lượng giáo dục - đào tạo, chương trình sách giáo khoa; vấn đề y đức, quá tải bệnh viện, chất lượng khám, chữa bệnh ở các cơ sở y tế công lập; lao động, việc làm, tai nạn giao thông;

- Công tác quản lý thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;

- Việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia;

- Công tác cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và bộ  máy nhà nước; chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật;

  - Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;

- Kết quả thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế…

 Quốc hội đã nghe một số thành viên Chính phủ giải trình một số vấn đề nổi lên qua ý kiến của đại biểu Quốc hội. Sau đó, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu kết thúc ngày làm việc.

Thứ sáu, ngày 31-5, buổi sáng, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật hòa giải cơ sở. Buổi chiều, Quốc hội thảo luận ở tổ về các dự án Luật tiếp công dânLuật bảo vệ và kiểm dịch thực vật.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Quận Bình Tân: “Mua” thi hành án với giá... 150 triệu đồng? Bài báo phản ánh: Báo CATP số ra ngày 8-5, 28-9 và 2-10-2012 có loạt bài phản ánh nhiều nạn nhân sập bẫy hai chị em bà Phạm Thị Bé (SN 1949) và ông Phạm Thanh Bình (SN 1967, cùng trú số 24 Miếu Gò Xoài, P.Bình Hưng Hòa A, Q.Bình Tân) dùng thủ đoạn một mảnh đất bán cho nhiều người. Sự việc bị phát giác, cặp bài trùng này lại giở chiêu tẩu tán hết tài sản để trốn tránh việc trả nợ khiến các nạn nhân đứng trước nguy cơ mất trắng số tiền tích góp cả đời từ mồ hôi và nước mắt. Tuy nhiên, đằng sau việc tẩu tán tài sản này đang có nhiều khuất tất cần được các cơ quan chức năng sớm vào cuộc làm rõ.

Trình bày với Báo CATP, bà Nguyễn Thị Lan (ngụ P14Q11), một nạn nhân của cặp bài trùng này cho biết: ngay sau khi phát hiện việc bị lừa đảo, gia đình bà đã gửi đơn khởi kiện lên TAND quận Bình Tân để được giải quyết. Sau đó, tại quyết định công nhận sự thỏa thuận thành của các đương sự số 84/2012/QĐST-DS do TAND Q.Bình Tân lập ngày 4-7-2012, ông Bình - bà Bé thừa nhận việc làm sai trái và đồng ý sẽ trả cho bà Lan 760 triệu đồng. Trong đó, 670 triệu mua nhà và 90 triệu hỗ trợ thiệt hại. Thời hạn trả chậm nhất là ngày 17-8-2012. Thế nhưng đến quá ngày trả nợ, ông Bình và bà Bé vẫn bặt tăm. Ngày 18-7-2012, Chi cục thi hành án (CCTHA) dân sự quận Bình Tân ra quyết định thi hành án số 326/QĐ-CCTHA để thi hành bản án trên. Ngày 2-8-2012, CCTHA dân sự quận Bình Tân ra quyết định số 539/QĐ-CCTHA do chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh ký quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng đối với tài sản là 164,8m2 nhà đất (thuộc thửa số 84, tờ bản đồ số 206-SĐN tại số 24, KP12, đường Miếu Gò Xoài, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân), là tài sản đang đứng tên ông Bình và bà Bé để đảm bảo thi hành án.

Điều bất ngờ là chỉ một ngày sau khi CCTHA dân sự quận Bình Tân ra quyết định thi hành án thì bà Bé và ông Bình đã sang nhượng toàn bộ tài sản nhà đất ở số 24 đường Miếu Gò Xoài, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân cho bà L.N.D (ngụ Q11) với giá 3,9 tỷ đồng. Thế nhưng khi CCTHA dân sự quận Bình Tân mời lên làm việc thi hành án thì bà Bé đều trâng tráo nói thẳng giờ mình chẳng còn tài sản và tiền nong gì để có thể trả nợ.

Tuy vậy, bà Nguyễn Thị Lan đã kịp thời yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp ngăn chặn và CCTHA dân sự quận Bình Tân kịp thời ra quyết định ngăn chặn đối với việc chuyển nhượng, thay đổi hiện trạng lô đất trên. Do vậy, việc mua bán giữa bà Bé, ông Bình với bà L.N.D chưa thể hoàn tất và mảnh đất trên vẫn đứng tên chủ quyền là bà Phạm Thị Bé và ông Phạm Thanh Bình.

Theo luật sư Hồ Minh Thanh (Đoàn luật sư TPHCM), với trường hợp trên đã có đủ cơ sở để chứng minh ông Bình và bà Bé có hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh thi hành án. Việc tẩu tán tài sản chưa được thực hiện hoàn tất thể hiện ở chỗ bà L.N.D chưa làm xong thủ tục đăng bạ và lô đất trên vẫn đứng tên chủ quyền là ông Phạm Thanh Bình và bà Phạm Thị Bé. Do đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án năm 2008, cơ quan thi hành án sẽ sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án là “kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ”.

Dù luật đã quy định rõ như vậy, nhưng không hiểu sao CCTHA dân sự quận Bình Tân vẫn cù cưa, ngâm hồ sơ không kê biên tài sản căn nhà số 24 đường Miếu Gò Xoài để trả lại tiền cho bị hại. Đến nay, sự việc kéo dài đã gần một năm nhưng vẫn chưa thể thi hành xong một bản án. Không những vậy, trong quá trình tìm hiểu vụ việc, chúng tôi còn phát hiện một chuyện động trời khác. Vào ngày 29-8-2012, chính chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh lại ký tiếp quyết định số 605/QĐ-CCTHA với nội dung “Xét thấy không cần ngăn chặn hành vi chuyển quyền sở hữu...” nên “chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng” đối với lô đất số 24 đường Miếu Gò Xoài (?!). Đây là một quyết định hết sức khó hiểu của chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh, bởi việc tự ý mở phong tỏa này có thể giúp cho cặp bài trùng Bé - Bình tẩu tán tài sản thành công.

Một điều nực cười khác lại xảy ra khi UBND quận Bình Tân gửi thư mời CCTHA quận và bà D. đến dự cuộc họp vào chiều 20-9-2012 để nghe báo cáo tiến độ thi hành bản án trên. Lúc này, bà chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh mới cấp tốc ban hành quyết định số 671/QĐ-CCTHA ký ngày 19-9-2012 (trước cuộc họp một ngày - P.V) nhưng với nội dung “Xét thấy cần ngăn chặn hành vi chuyển quyền sở hữu...” nên quyết định “tạm dừng việc đăng ký chuyển quyền sở hữu...” đối với lô đất số 24 đường Miếu Gò Xoài của ông Bình và bà Bé. 

Điều gì đã khiến cho bà chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh liên tiếp ký quyết định ngăn chặn rồi lại mở ngăn chặn và sau đó lại phải ký quyết định ngăn chặn trong một thời gian ngắn đến như vậy? Phải chăng đằng sau những quyết định này có điều gì khuất tất? Và cuộc họp của UBND quận Bình Tân là nằm ngoài dự kiến của bà chấp hành viên, nếu không thì tài sản của ông Bình, bà Bé đã được tẩu tán trót lọt?

Chính vì phải áp dụng lại biện pháp ngăn chặn nên mảnh đất 24 đường Miếu Gò Xoài vẫn đứng tên tài sản của ông Bình và bà Bé. Các giao dịch khác liên quan đến mảnh đất này vì thế cũng bị tắc lại. Từ đây, hé lộ thêm một tình tiết hết sức quan trọng liên quan đến nghi án nhận tiền hối lộ để mở phong tỏa tài sản nhằm giúp thực hiện hành vi tẩu tán tài sản.

Trong một cuộc nói chuyện, bà L.N.D cho biết khi căn nhà số 24 đường Miếu Gò Xoài bị ngăn chặn, bà chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh đã gọi điện thoại trực tiếp cho bà để ra điều kiện muốn mở phong tỏa mảnh đất trên thì cần phải đưa 150 triệu đồng để chung chi (?!). Sau đó, vì muốn mở phong tỏa để thực hiện các thủ tục sang tên mảnh đất này nên bà L.N.D đã chuyển cho bà Dương Thị Hồng Ánh số tiền 150 triệu đồng theo yêu cầu. Nhưng khi nhận được số tiền trên, bà Ánh chỉ mở phong tỏa được mấy ngày rồi lại phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khiến bà D. chưa kịp làm thủ tục sang tên mảnh đất này.

Có hay không việc bà chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh nhận hối lộ 150 triệu đồng để tự ý mở phong tỏa nhằm giúp cho ông Bình, bà Bé tẩu tán tài sản? Hay đó chỉ là một lời nói bịa đặt của bà L.N.D? Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc điều tra. Nếu có việc nhận chung chi của một số cán bộ thi hành án biến chất thì cần phải xử lý nghiêm, bằng không cũng cần xử lý thật nặng đối với những kẻ vu khống cán bộ Nhà nước.

2. Báo Tiền Phong Online đưa tin: Báo cáo kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo và Văn phòng Ban Chỉ đạo TP Cần Thơ về phòng, chống tham nhũng trong 5 năm (2008-2013) vừa công bố, không nêu phát hiện và xử lý vụ tham nhũng nào.

Phần đánh giá chung, báo cáo cho biết 5 năm qua “tham nhũng, lãng phí từng bước được kiềm chế, ngăn chặn”. Tuy nhiên, báo cáo cũng cho rằng tình hình tham nhũng “vẫn còn phức tạp, nhất là trên các lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, cổ phần hóa doanh nghiệp…”.

Báo cáo không nhắc đến vụ ông Phạm Thanh Dũng (Phó phòng Hành chính Tư pháp của Sở Tư pháp TP Cần Thơ) bị phạt tù chung thân vì nhận hối lộ hơn 4,1 tỷ đồng trong làm hồ sơ cho các cô gái lấy chồng nước ngoài; hai cán bộ ở quận Ô Môn bị xử tù vì tham nhũng trong mua máy phát điện; thư ký TAND quận Ninh Kiều bị bắt vì nhận hối lộ để chạy án.

3. Trang Tuanvietnam.net có bài Chọn điểm cân bằng trong quản hộ tịch, cư trú. Bài báo giới thiệu kinh nghiệm quốc tế trong việc quản lý hộ tịch, cư trú, như một góc nhìn tham khảo trong quá trình sửa Luật hộ tịch, Luật cư trú của Việt Nam.

Tất cả các quốc gia trên thế giới đều thiết lập hệ thống quản lý hộ tịch nhằm các mục tiêu sau đây: Thuận tiện cho nhà nước nắm được những biến động về dân cư, thành phần dân cư, phân bố dân cư để lập các chính sách vĩ mô; Thuận tiện cho cơ quan nhà nước và các bên thứ ba dễ dàng xác minh được trạng thái nhân thân của một cá nhân để hạn chế việc lừa đảo, che dấu thông tin; Thuận tiện cho cơ quan nhà nước và các bên thứ ba dễ dàng tìm ra nơi đang cư trú để truy cứu trách nhiệm pháp lý hay buộc thực hiện một nghĩa vụ nào đó; Góp phần giảm áp lực tập trung dân cư vào một số đô thị quá tải.

Với các mục tiêu nêu trên, nhà nước luôn mong muốn thiết lập một hệ thống quản lý với chi phí thấp nhất, thuận tiện nhất cho nhà nước. Tuy nhiên, lợi ích của nhà nước cần xuất phát từ lợi ích của dân; lợi ích của dân mới là lợi ích nguyên phát. Vì vậy, các quốc gia phải đi tìm điểm cân bằng giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của dân.

    Ngoại trừ Triều Tiên và Cuba, tất cả các quốc gia ngày nay đều coi lao động là một loại hàng hóa và tìm cách thúc đẩy tự do hóa lưu thông của lao động, hoàn thiện thị trường lao động . Dỡ bỏ các rào cản, cho phép người lao động tự do di chuyển, cư trú ở nơi mới, giúp họ có khả năng tìm việc làm tốt hơn, tiền lương cao hơn là một cách thức tháo gỡ khó khăn cho người lao động.

Khuyến khích tự do di chuyển lao động, hạn chế các tác nhân làm méo mó thị trường lao động, cũng là cách thức giúp cho người sử dụng lao động dễ dàng tìm được người phù hợp làm việc cho mình, giảm chi phí tuyển dụng và đặt ông chủ dưới áp lực phải tăng lương nếu muốn giữ lại lao động tốt. Ở góc độ này, dỡ bỏ các rào cản đối với tự do cư trú, là cách thức thúc đẩy phát triển nền kinh tế của quốc gia, tăng sức mạnh cạnh tranh toàn cầu.

Nhưng khi cư dân di chuyển nhiều thì dữ liệu đăng ký cư trú liên tục phải cập nhật, tạo ra áp lực cho cơ quan quản lý. Với mức lương như nhau, thì công chức luôn muốn điều nhàn hạ nhất. Đây chính là xung đột đầu tiên giữa nhà nước và nhân dân cần tìm điểm cân bằng.

Bên cạnh nhu cầu về việc làm, một bộ phận dân cư có nhu cầu chuyển về sinh sống tại các đô thị, đặc biệt là các thủ đô bởi họ có nhu cầu giáo dục, chữa bệnh, hưởng thụ tinh thần.... Đây là những nhu cầu chính đáng và phù hợp với quyền tự do cư trú đã được hiến pháp tất cả các quốc gia dân chủ ghi nhận. Điều này gây áp lực lên các đô thị và các cơ quan nhà nước đã tìm cách điều tiết hoặc bằng biện pháp hành chính hoặc bằng biện pháp kinh tế. Lựa chọn biện pháp nào để không bị coi là vi hiến, tạo cơ hội bình đẳng giữa công dân thành thị và công dân nông thôn là điểm cân bằng thứ hai quốc gia phải dò tìm.

Bất kỳ người dân nào đến cư trú tại nơi nào đều mong mốn có tiếng nói chính trị tác động lên cách thức chính quyền địa phương đang hành xử tại địa phương nơi mình cư trú; họ cũng mong muốn được hưởng những phúc lợi mà nhà nước đang cung cấp tại địa phương đó. Để được hưởng những điều này, thì họ cần có sự gắn bó ở mức độ nhất định đối với địa phương. Điều kiện nào, sau thời gian bao lâu thì những người mới đến được hưởng các quyền lợi kinh tế, chính trị như dân bản địa là một điểm cân bằng thứ ba cần cân nhắc.

Nếu đặt ra các điều kiện quá khắt khe, thì người mới đến không thể nào dễ dàng thiết lập được một cuộc sống bình thường trong suốt thời gian chờ đợi; điều này không chỉ gây áp lực lên cho chính bản thân họ, mà cũng gây áp lực lên chính quyền địa phương.

Nếu không đặt ra điều kiện nào thì người mới đến và trao đầy đủ các quyền mà người bản địa cho những người mới đến thì sẽ gây bất công cho những người bản địa, bởi họ đã có những đóng góp (ngoài tư cách là công dân của một quốc gia) cho sự phát triển của địa phương, nhưng họ phải chia sẻ phúc lợi cho người không có đóng góp gì. Như vậy ở điểm cân bằng thứ ba này, không chỉ liên quan mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, mà giữa cư dân bản địa và cư dân mới đến.

Một nhu cầu rất lớn của người dân là nhu cầu bảo vệ sự riêng tư. Không ai muốn một người khác nắm quá nhiều thông tin về mình, nhất là trong bối cảnh lạm dụng các cơ sở dữ liệu về nhân thân nhằm vào các mục đích quảng cáo, thương mại hay thậm chí lừa đảo đang diễn ra khắp nơi trên thế giới trong kỷ nguyên internet. Điều này đặt ra khi lựa chọn điểm cân bằng thứ tư: dữ liệu nào phải cung cấp cho cơ quan nhà nước, cung cấp trong trường hợp nào, ai được quyền tiệp cận, khai thác cơ sở dữ liệu, khai thác đến đâu; nếu xảy ra lạm dụng thì chế tài là gì, người nào chịu trách nhiệm, cách tính bồi thường thiệt hại cho mỗi lần bị lạm dụng cơ sở dữ liệu như thế nào; việc cơ quan nhà nước để lộ thông tin, dẫn đến bên thứ ba lừa đảo, lợi dụng người dân thì ai bồi thường?

Nhu cầu thứ năm, là nhu cầu được đối xử bình đẳng không phân biệt thành phần dân tộc, thành phần gia đình, giới tính, quê quán, tôn giáo ... việc phơi bày các thông tin hộ tịch cho các nhà tuyển dụng, cơ quan công quyền mọi lúc mọi nơi sẽ làm cho vấn đề phân biệt đối xử trở nên ngày càng trầm trọng. Người dân muốn càng ít khai báo càng tốt, nhà tuyển dụng, nhà chức trách muốn càng nắm nhiêu thông tin càng tốt. Đây chính là điểm cân bằng thứ năm cần phải cân nhắc.

Nhu cầu thứ sáu, người dân muốn càng ít loại giấy tờ càng tốt; cùng một loại giấy tờ thì muốn được càng nhiều bên công nhận giá trị, càng tốt. Nhưng đôi khi các nhà cung cấp dịch vụ, nhà tuyển dụng, nhà chức trách hoặc là nghi nghờ lẫn nhau, không muốn công nhận giá trị của một loại giấy tờ nào đó hoặc vì nhu cầu đặc thù muốn xây dựng hệ thống thông tin riêng, không sử dụng các cơ sở dữ liệu, giấy tờ chung. Khi tình trạng này xảy ra làm tăng chi phí xã hội cho việc xây dựng nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, người dân lúng túng trước một thủ tục hành chính, một giao dịch dân sự không biết nên mang loại giấy tờ gì để được chấp nhận. Mỗi cơ quan, tổ chức đòi hỏi một số loại giấy tờ đặc thù, sẽ thuận tiện cho tổ chức đó, nhưng sẽ bất tiện cho người dân. Đây chính là điểm cân bằng thứ sáu cần phải xác định.

Mục tiêu của các nhà nước khá giống nhau, nhu cầu của dân cư khá giống nhau, sự khác nhau giữa các quốc gia, nằm ở thái độ và cách thức lựa chọn các điểm cân bằng này.

* Điểm cân bằng thứ nhất:

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tìm mọi cách hoàn thiện thị trường lao động,  nỗ lực bảo đảm sự lưu thông của lao động từ giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu vực nhà nước (bao gồm lao động trong các cơ quan nhà nước). Ngoài việc không có các hạn chế hành chính đối với di chuyển lao động trong cùng một quốc gia thì, một số các quốc gia còn khuyến khích mạnh mẽ việc di chuyển lao động bằng các biện pháp sau:

-    Khi các thành phố tuyển công chức, không đòi hỏi người đó phải đang cư trú tại thành phố; thay vào đó mọi công dân bất kể đang sống ở đâu đều có quyền nộp đơn; họ tuyển người tài trong toàn quốc chứ không tự bó hẹp trong địa phương mình. Điều này tạo ra sự cạnh tranh trong thị trường lao động công chức có tính toàn quốc. Một số lĩnh vực không liên quan đến bí mật quốc gia, hay đòi hỏi sự trung thành cao của công chức, như các vị trí giáo viên, bác sĩ trong các cơ sở công lập, thì các quốc gia thành viên EU còn cho phép công dân của bất kỳ thành viên EU nào cũng được phép nộp đơn thi tuyển. Ví dụ công dân Tây Ban Nha có thể nộp đơn thi tuyển làm giáo viên tại một trường công lập ở CHLB Đức, nếu ứng viên đáp ứng hết các tiêu chuẩn tuyển dụng.

-    Có chính sách trợ cấp đối với người thay đổi công việc, chuyển cả gia đình từ thành phố này sang thành phố khác;

-    Xây dựng các công viên cho các nhà di động. Các nhà di động có đủ tiện nghi tương đương một căn hộ 15 - 25m2 được đặt trên xe tải hoặc thiết kế dưới dạng rơ móc kéo. Khi một gia đình sống trong nhà di động, chuyển sang một thành phố mới tìm việc làm, họ có thể đỗ xe ở các công viên thiết kế cho nhà di động. Công viên có thiết kế sẵn từng ô cho từng nhà di động, có sẵn đấu nối đường điện, nước, thoát nước. Chỉ cần ký hợp đồng, đóng phí và thao tác 10 phút, là căn nhà di động có thể có đầy đủ điện nước, vệ sinh ... cần thiết cho một cuộc sống bình thường.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Một số ít các quốc gia như Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam duy trì chế độ hộ khẩu, hạn chế sự lưu thông lao động bằng các biện pháp

-    Khi tuyển dụng công chức của các địa phương thì chỉ tuyển những ai có hộ khẩu tại địa phương, người tài ở nơi khác sẽ không có cơ hội; giảm bớt áp lực cạnh tranh cho con em địa phương;

-    Gắn điều kiện có hộ khẩu với rất nhiều quyền lợi khác như nhà trẻ, trường học công lập, đăng ký xe máy, ô tô ...

-    Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, đổ thêm khó khăn cho người lao động nhập cư, không có hộ khẩu tại nơi mình đang thực cư trú, bằng việc từ chối ký hợp đồng điện thoại, internet, điện, nước ... nếu họ không có hộ khẩu tại nơi cung cấp dịch vụ.

* Điểm cân bằng thứ hai

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Hầu hết các quốc gia phát triển, đều có các đô thị lớn, và ít nhiều đều phải giải quyết áp lực đô thị hóa. Và họ điều tiết vấn đề này bằng các biện pháp kinh tế, tránh xâm phạm quyền tự do cư trú của công dân bằng các biện pháp sau:

-    Có chính sách phát triển đồng đều các vùng miền, các thành phố, tránh tập trung mọi thứ tinh hoa chỉ vào một vài thành phố lớn. Nước Đức là thành công điển hình cho khuynh hướng này: trung tâm tài chính ở Frankfurt; trung tâm kỹ thuật công nghiệp ở Munich; trung tâm báo chí, xuất nhập khẩu ở Hamburg; trung tâm văn hóa và chính trị ở Berlin.

-    Các thành phố được trao quyền đánh thuế bất động sản, chủ động ấn định phí vệ sinh môi trường. Tất cả các ngôi nhà sẽ được định giá và đánh thuế bất động sản dựa trên trị giá ngôi nhà (bao gồm cả nhà và đất). Nếu thuế bất động sản cao lên, sẽ có một số chủ nhà rời thành phố, sang vùng khác có thuế bất động sản thấp hơn. Tương tự, thuế bất động sản cao, tiền thuê nhà cần phải tăng lên, những người thu nhập không đủ cao sẽ tìm sang thành phố có thuế bất động sản thấp hơn, giá thuê nhà rẻ hơn. Bằng biện pháp  kinh tế này, thành phố đã chọn lọc được thành phần dân cư và những ai không đủ tài, kể cả là cư dân bản địa, sẽ bị cơ chế kinh tế này buộc rời thành phố, để tìm sang những thành phố có mức sinh hoạt rẻ hơn. Việc đánh thuế bất động sản, đánh vào nhà giàu, cũng góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo. Ngược lại thu thuế bất động sản và phí vệ sinh môi trường cao, thành phố có ngân sách tốt để cung cấp dịch vụ công chất lượng cao.

-    Đặt ra điều kiện về diện tích phòng ở tính trên đầu người. Số lượng người đăng ký cư trú không thể vượt quá khả năng cung cấp diện tích nhà ở trên toàn thành phố. Chỗ ở dưới ngưỡng diện tích này, sẽ không được coi là nơi ở hợp pháp.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Ở các quốc gia có mức độ tập quyền cao như Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam, các thành phố không được trao quyền quy định thuế, nên phải dùng các biện pháp hành chính để ngăn chặn luồng di cư, bằng cách phải tạo ra khó khăn cho người muốn sinh sống tại các đô thị, đặc biệt là đô thị lớn, bằng các biện pháp.

-    Nâng cao các điều kiện để có hộ khẩu ở các đô thị lớn (có thể đăng ký thường trú) như đòi hỏi về hợp đồng lao động dài hạn, thời gian đã tạm trú tối thiểu là hai năm ...

-    Gắn điều kiện có hộ khẩu với rất nhiều thủ tục hành chính khác: như khai sinh, kết hôn, đăng ký phương tiện làm việc như xe máy, ô tô...

-    Gắn điều kiện có hộ khẩu với nhiều quyền lợi khác như thi tuyển công chức, trường học công lập, ký các hợp đồng dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống như điện, nước, điện thoại, internet ... cho dù ai cũng phải uống nước, cần điện thắp sáng.
Bằng chế độ hộ khẩu và các biện pháp nêu trên, sẽ tạo ra khó khăn cho người nhập cư, để họ nản lòng và làm cho thành phố bớt hấp dẫn đối với người nhập cư , thông qua đó hy vọng giảm bớt số người về sinh sống tại các đô thị lớn.

* Điểm cân bằng thứ ba

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Hầu hết các quốc gia đều cho phép tất cả các công dân đang cư trú tại địa phương, không phân biệt cũ hay mới đến, đều có quyền có tiếng nói chính trị tại địa phương bằng cách trao quyền bầu cử đối với các cuộc bầu cử thiết lập chính quyền địa phương. Thậm chí một số quốc gia EU, còn cho phép công dân của thành viên EU, không phải là công dân nước mình những vẫn có thể tham gia bầu cử các cơ quan địa phương tại nơi mình sinh sống.

Tuy nhiên, đối với ứng cử thì có một số hạn chế, đòi hỏi sự trung thành, gắn bó của ứng viên đối với địa phương. Nên luật bầu cử các quốc gia đòi hỏi thời gian tối thiểu đã đăng ký cư trú của ứng viên, thường từ hai năm đến mười năm, tính cộng dồn tổng thời gian cư trú hoặc tính khoảng thời gian cư trú liên tục. Và vì hầu hết các quốc gia này không có chế độ hộ khẩu, nên không hạn chế ứng cử dựa vào hộ khẩu.

Việc hưởng các phúc lợi cũng như tiện ích công cộng như trường học, bệnh viện, công viên, bể bơi ... hoàn toàn không phân biệt giữa người mới đến và người cư trú từ lâu. Bởi chỉ cần chuyển đến cư trú, thì ngay lập tức người mới đến được xem là thành viên của cộng đồng, và phải chấp hành các nghĩa vụ cũng như được hưởng quyền lợi bình đẳng như mọi thành viên khác.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Các quốc gia như Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam phân biệt đối xử giữa các công dân không dựa trên thời gian thực tế cư trú, mà dựa trên việc công dân có hộ khẩu hay không tại nơi mình đang thực tế cư trú. Cho dù thực tế cư trú liên tục hàng chục năm tại các đô thị lớn, nhưng nếu cư dân không có hộ khẩu ở đó thì họ sẽ không được hưởng các phúc lợi công cộng của thành phố như trường học, tiêm phòng ... Nếu một người dù mới chuyển đến cư trú một tháng, nhưng nếu anh ta có hộ khẩu tại thành phố, thì ngay lập tức được hưởng đầy đủ tất cả các quyền lợi.

* Điểm cân bằng thứ tư

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Để hạn chế bớt việc làm lộ thông tin và lạm dụng cơ sở dữ liệu hộ tịch, các nước phát triển áp dụng một số biện pháp sau:

-    Quy định chế tài rất nặng đối với việc mua bán dữ liệu hộ tịch, và kể cả đối với dữ liệu khách hàng.

-    Khi bất kỳ cơ quan nhà nước hay một tổ chức tư nhân, thu thập bất kỳ dữ liệu nhân thân nào đều phải nêu rõ phạm vị ứng dựng, phổ biến dữ liệu đó và cam kết không sử dụng ngoài các phạm vi ứng dụng đã nêu khi chưa có sự đồng ý của người đó. Các cam kết này là cơ sở để cho công dân khởi kiện, khi người thu thập dữ liệu sử dụng trái mục đích cam kết.

-    Cho phép công dân khởi kiện cơ quan, tổ chức đã lạm dụng dữ liệu nhân thân gây thiệt hại trực tiếp cho công dân.

-    Trong trường hợp việc lạm dụng cơ sở dữ liệu chưa gây thiệt hại trực tiếp cho công dân, hoặc gây thiệt hại nhưng tính theo đầu người chưa lớn, thì cho phép các hiệp hội như hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng... có thể khởi kiện buộc cơ quan, tổ chức lạm dụng cơ sở dữ liệu phải bồi thường.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Các nước đang phát triển, thường có các tuyên bố trừng phạt hành vi lạm dụng cơ sở dữ liệu về nhân thân. Tuy nhiên, các chế tài thường không mạnh mẽ, không có các chế tài hình sự đối với cách hành vi lạm dụng, khai thác trái phép dữ liệu nhân thân. Và cũng thường chưa cho phép nạn nhân khởi kiện trong các trường hợp dữ liệu nhân thân bị lộ. Và vì thường không có các cam kết về phạm vi sử dụng sử liệu, nên nếu có cho phép nạn nhân khởi kiện, thì việc thắng kiện cũng vô cùng khó.

Thực tiễn spam email và quảng cáo trên điện thoại di động ở Việt Nam, Trung Quốc cho thấy rõ thực trạng của lựa chọn này.

* Điểm cân bằng thứ năm

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Việc công khai thông tin nhân thân ở các nước phát triển theo nguyên tắc càng ít càng tốt. Tất cả các giấy tờ đều thể hiện các thông tin đủ cần thiết cho mục đích tương ứng, tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức tư nhân không được phép yêu cầu công dân cung cấp thêm thông tin nhân thân.

Vì vậy, căn cước (ID) chỉ hiển thị những thông tin đủ để nhận dạng công dân. Khi cần có thêm thông tin khác, ngoài mục đích nhận dạng, cơ quan có thẩm quyền phải liên hệ với cơ quan đã cấp căn cước.

Để tránh phân biệt đối xử, khi tuyển dụng, người tuyển dụng không được yêu cầu người dự tuyển cung cấp thông tin về giới tính, tôn giáo, thành phần sắc tộc trong hồ sơ dự tuyển nếu công việc không đòi hỏi phải đúng giới tính, thành phần sắc tộc nào đó.

Để hạn chế sự phân biệt đối xử dựa trên thành phần xã hội, các hồ sơ dự tuyển không được yêu cầu cung cấp thông tin về bố mẹ, nguồn gốc xuất thân, nếu các vị trí truyển dụng không liên quan bí mật hay an ninh quốc gia. Dĩ nhiên, ở các quốc gia này, trong dữ liệu nhân thân không có mục nguyên quán, nên không bao giờ phải khai nơi sinh của bố mẹ, ông bà, cụ kỵ.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Các quốc gia đi theo mô hình nền hành chính cai trị, thì sẽ cố gắng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà nước chức trách trong việc tìm kiếm thông tin nhân thân, mà không xem nhẹ lợi ích của người bị trị, nên thể hiện thông tin trên các giấy tờ theo nguyên tắc càng nhiều càng tốt, đỡ mất công đi tìm.

Điển hình các nước Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam duy trì chế độ khai lý lịch ba đời; duy trì việc khai nguyên quán, phần khai về tôn giáo không được bỏ trống hay nói cách khác không được phép im lặng.

Trong thời gian gần đây, Việt Nam còn đi xa hơn Triều Tiên và Trung Quốc, bằng việc quy định chứng minh thư nhân dân phải ghi cả tên bố mẹ .

* Điểm cân bằng thứ sáu

Kiểu lựa chọn thứ nhất

Để giản tiện cho các giao dịch dân sự, các thủ tục hành chính, pháp luật các nước tiên tiến chỉ đòi hỏi căn cước, hoặc có thể thay thế căn cước bởi bằng lái xe để chứng minh nhân thân.

Trong một vài trường hợp, để bảo đảm khả năng khởi kiện hoặc tống đạt các loại giấy tờ thì các nhà cung cấp dịch vụ có thể yêu cầu thêm giấy xác nhận của cảnh sát để bảo đảm tại thời điểm ký kết, người khai đang thực tế cư trú địa chỉ mình khai trong hợp đồng.

Kiểu lựa chọn thứ hai

Ở các quốc gia đang phát triển, pháp luật chưa hoàn thiện, tỷ lệ khai man, lừa đảo cao như ở Trung Quốc, Việt Nam thì căn cước nhiều lúc không có giá trị, mà các nhà cung cấp dịch vụ, nhà chức trách có thể yêu cầu bổ sung thêm các giấy tờ khác.

Khi ký kết các hợp đồng quan trọng, công dân thường bị yêu cầu xuất trình sổ hộ khẩu. Cho dù, thực tế không ít trường hợp có người bán nhà hàng chục năm, nhưng hộ khẩu vẫn ghi theo địa chỉ nhà cũ.



File đính kèm