I- THÔNG TIN NỔI BẬT
1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Dự thảo Hiến pháp đã tập hợp đủ ý kiến nhân dân chưa? Bài báo đưa tin: Đó là câu hỏi được nhiều đại biểu nêu ra, bản thân Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cũng băn khoăn tại phiên Quốc hội họp tổ để thảo luận về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 27-5.
Đại biểu Trần Minh Diệu (Quảng Bình) cho biết: Nghị quyết của Quốc hội nói là lấy ý kiến nhân dân trong ba tháng, nhưng vướng vào dịp tết mất một tháng, triển khai xuống dưới mất thêm thời gian nữa, rồi lại phải lo tổng hợp báo cáo. Như vậy thực tế thời gian lấy ý kiến nhân dân rất ngắn, lúc đầu có những cuộc góp ý suông vì chưa có tài liệu. Bây giờ cho kéo dài lấy ý kiến đến tháng 9, nhưng dân đang góp ý dựa trên nội dung dự thảo trước đây, còn Quốc hội lại đang thảo luận với dự thảo mới.
Chia sẻ với thông tin của đại biểu Diệu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nói: “Chúng ta xác định Hiến pháp là sản phẩm của nhân dân, Quốc hội sau này có biểu quyết thì cũng thay mặt nhân dân để biểu quyết thôi. Nhân dân là chủ thể Hiến pháp, nhưng việc lấy ý kiến nhân dân quá gấp gáp. Bây giờ cho phép kéo dài đến tháng 9 thì cũng là cách nói thôi, bởi nó cũng trái với nghị quyết của Quốc hội (vì nghị quyết nói là đến hết tháng 3). Tôi đi tiếp xúc cử tri thì người ta cũng nói ý rằng việc lớn như vậy sao ông làm vội vội vàng vàng?”.
Ông Cường đề nghị: “Sau khi Quốc hội chỉnh lý lần này thì nên có cách thức nào đó để lấy thêm ý kiến nhân dân. Nên gửi các báo cáo góp ý nguyên bản của Chính phủ, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, MTTQ VN cho đại biểu Quốc hội nghiên cứu. Nếu chỉ coi góp ý của Chính phủ cũng chỉ là một ý kiến thôi thì không đúng, bởi báo cáo của Chính phủ cũng là trên cơ sở tổng hợp báo cáo của 63 tỉnh, thành”.
2. Báo Dân trí có bài Sổ hộ khẩu còn tồn tại đến bao giờ? Bài báo phản ánh: Đó là câu hỏi của nhiều đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo luật Cư trú chiều 24/5. Đại biểu Quốc hội, những đại biểu của dân, thay mặt dân để làm Luật mà đến nay, khi bàn về luật Cư trú, vẫn phải đặt câu hỏi như vậy…
Hỏi hộ khẩu còn tồn tại đến bao giờ nghĩa là tại sao vẫn cứ duy trì cái sổ hộ khẩu, dùng nó như một loại “giấy phép” bắt buộc phải có để tiến hành nhiều, rất nhiều giao dịch dân sự? Trong khi trên thế giới ngày nay không ai hiểu sổ hộ khẩu là gì. Nhật Bản đã bỏ hộ khẩu từ thời Minh Trị.
Ngày nay, đã qua thập niên đầu của thế kỷ 21. Cả thế giới đã điện tử. Các quốc gia lân cận đã chính phủ điện tử. Họ quản lí công dân thế nào, ai chẳng biết. Thế mà, ta, tự xem là văn minh…vẫn cứ loay hoay hộ khẩu hay không hộ khẩu. Từ sau 1990 không còn sổ gạo, tem phiếu nữa, vậy mà hộ khẩu vẫn tiếp tục sứ mệnh…hành dân, gây không biết bao nhiêu phiền toái trong giao dịch dân sự. Trong khi chỉ cần một cái thẻ theo như đề xuất của Bộ trưởng Tư Pháp hồi năm ngoái, thế mà vẫn còn để…ngâm cứu.
Thật lạ, trong khi Hiến pháp ghi rõ công dân được quyền tự do cư trú thì cái sổ hộ khẩu vẫn cứ như vòng kim cô kìm hãm phát triển ở cả từ nghĩa hẹp nhất đến rộng nhất. Đến bao giờ xóa bỏ sổ hộ khẩu? Câu trả lời vẫn bỏ ngỏ. Chẳng nhẽ, bao nhiêu năm tháng đã qua, bao nhiêu đổi thay như vũ bão trên tất cả mọi lĩnh vực mà “cái nước mình nó thế” vẫn là điệp khúc không bao giờ quên?
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công lý có bài Công tác bồi thường nhà nước 3 năm qua: Con số yêu cầu bồi thường thấp hơn nhiều so với thực tế. Bài báo phản ánh: Đó là thông tin được đưa ra tại Hội nghị sơ kết 3 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước (Luật TNBTNN) do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 28-5. Theo đó, đã có quá nhiều bất cập nảy sinh trong công tác này kể từ khi Luật có hiệu lực từ ngày 1-1-2010.
Số liệu thống kê của Cục Bồi thường nhà nước (BTNN) cho thấy, sau 3 năm thi hành Luật TNBTNN, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý 182 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó đã giải quyết 137 vụ việc (đạt tỷ lệ 75%), còn lại 45 vụ việc đang tiếp tục giải quyết với tổng số tiền trên 23 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực quản lý hành chính là 56 vụ việc (có 41 vụ đã giải quyết và 15 vụ đang giải quyết); Thi hành án dân sự là 27 vụ; lĩnh vực tố tụng là 98 vụ (Tòa án là 29 vụ, trên 1,6 tỷ đồng; VKS 69 vụ, số tiền gần 6,7 tỷ đồng), ngành Công an là 2 vụ.
Con số phải bồi thường thiệt hại nhà nước phải chi trả trong 3 năm qua trên 23 tỷ đồng còn khá “khiêm tốn” so với số người bị thiệt hại thực tế. Tuy nhiên, việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ vào ngân sách nhà nước do lỗi của họ gây ra lại đang là vấn đề đáng bàn hiện nay. Thời gian qua, số vụ hoàn trả là rất ít, 11/137 số vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường. Đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng, kể từ khi luật có hiệu lực đến nay, Nhà nước chưa thu được một khoản tiền hoàn trả nào của người thi hành công vụ. Bên cạnh đó, trong hoạt động quản lý hành chính và THA, trong một số trường hợp, việc xem xét trách nhiệm hoàn trả lại chưa được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công tác BTNN, đó là chính sách lớn của nhà nước ta nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên tinh thần đó, nói chung công tác này cơ bản đáp ứng được mục tiêu đề ra, kết quả đáng khích lệ. Song ông Cường vẫn cho rằng, công tác này hiện nay đang “có vấn đề”. Như trong báo cáo có nêu nhiều địa phương trong năm qua không phát sinh việc bồi thường thiệt hại, trong khi thực tế nhiều nơi đơn khiếu nại công dân đòi bồi thường vẫn cấp tập gửi đến, thậm chí có người còn đến tận khu nhà Bộ trưởng để chờ được giải quyết. Ông Cường cũng dẫn chứng, vụ đòi bồi thường ở Quãng Ngãi, công dân có đơn khiếu nại đòi bồi thường từ năm 2007 nhưng mãi đến năm 2010 mới có quyết định là sai và được bồi thường và đến nay mới giải quyết xong việc bồi thường.
Vì vậy, ông Cường đề nghị Cục BTNN làm rõ những bất cập, tồn tại để tìm ra nguyên nhân khắc phục. Nâng cao hơn nữa ý thức của người dân trong công tác này, khi Nhà nước gây thiệt hại cho người dân thì phải bồi thường thiệt hại, không nên để người dân phải chịu cơ chế “xin, cho”. Đồng thời hoàn thiện thể chế, làm việc rốt ráo với các cơ quan liên quan để ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời trong lĩnh vực này, tránh tình trạng “luật chờ nghị định” như hiện nay.
Cũng về vấn đề này, Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin về nội dung phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phạm Quý Tỵ về kết quả thi hành Luật TNBTCNN thời gian qua và các giải pháp chủ yếu trong thời gian tới.
- Xin Thứ trưởng cho biết kết quả nổi bật sau hơn 3 năm triển khai thi hành Luật TNBTCNN?
- Suốt 3 năm qua, với sự nỗ lực, cố gắng của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương, việc thực hiện Luật TNBTCNN đã đạt được những kết quả đáng kể trên các mặt công tác. Cụ thể, về tổ chức bộ máy, biên chế làm công tác bồi thường nhà nước (BTNN), đã thành lập Cục BTNN thuộc Bộ Tư pháp để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án, đồng thời, phối hợp với TANDTC và VKSNDTC thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng.
Ở các Bộ, ngành cũng đã phân công tổ chức pháp chế, các vụ chuyên môn thực hiện tham mưu về công tác bồi thường và bố trí công chức thực hiện nhiệm vụ này. Ở địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện), đã giao Sở Tư pháp và Phòng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ tham mưu giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và phối hợp với các cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường các lĩnh vực tại địa phương. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh cũng đã giao tổ chức pháp chế hoặc phòng chuyên môn thực hiện nhiệm vụ này.
Về công tác xây dựng văn bản hướng dẫn Luật, từ khi Luật có hiệu lực đến nay, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành trình Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2010/NĐ-CP quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TNBTCNN cùng 10 thông tư, thông tư liên tịch.
Trong đó, có 5 thông tư liên tịch hướng dẫn nghiệp vụ về giải quyết bồi thường; 4 thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn quản lý nhà nước và tổ chức biên chế về công tác bồi thường tại địa phương và 1 thông tư liên tịch hướng dẫn về kinh phí thực hiện BTNN. Hiện Bộ Tư pháp vẫn đang tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng một số thông tư liên tịch khác.
Về công tác bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường, ngay sau khi Luật TNBTCNN có hiệu lực thi hành, các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức hoặc tự tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ giải quyết BTNN cho đội ngũ cán bộ, công chức được phân công thực hiện công tác này.
Trong 3 năm qua, hầu hết các Bộ, ngành, địa phương đều tổ chức từ 1 - 5 hội nghị tập huấn, bồi dưỡng với hàng trăm lượt cán bộ, công chức tham gia. Bộ Tư pháp đã chủ trì, tổ chức hơn 20 hội nghị tập huấn nghiệp vụ bồi thường nhà nước cho công chức được giao thực hiện công tác này tại các Bộ, ngành và địa phương với gần 2.000 lượt người tham dự.
Về công tác hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường, Cục BTNN đã tiếp nhận và hướng dẫn nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện quyền yêu cầu BTNN; hướng dẫn các Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn về nghiệp vụ và giải đáp vướng mắc pháp luật trong hoạt động giải quyết bồi thường. Các Bộ, ngành có vụ việc phải giải quyết bồi thường đều thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý nhằm giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các yêu cầu bồi thường của tổ chức, công dân.
Về tình hình yêu cầu bồi thường và kết quả giải quyết bồi thường, theo số liệu tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương, từ khi Luật có hiệu lực đến ngày 31/12/2012, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý 181 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó đã giải quyết được 138 vụ việc, còn lại 43 vụ việc đang tiếp tục giải quyết. Tổng số tiền đã chi trả bồi thường là hơn 22 tỷ đồng.
- Kết quả đạt được trong 3 năm thực hiện Luật TNBTCNN như trên là rất đáng kể, tuy nhiên, dư luận xã hội nói chung, các nhà nghiên cứu và đặc biệt là người bị thiệt hại đều cho rằng những hạn chế, vướng mắc trong triển khai thực hiện Luật TNBTCNN là rất lớn và đặt ra vấn đề phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Thứ trưởng có thể chia sẻ đôi nét về những bất cập ấy?
- Cùng với những kết quả đã đạt được như đã nói ở trên, qua theo dõi và ý kiến phản ánh của một số Bộ, ngành, địa phương thì việc thực hiện Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã nảy sinh những vướng mắc, bất cập.
Đó là những vướng mắc, bất cập liên quan đến các quy định của Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn cùng những vướng mắc, bất cập liên quan đến hoạt động triển khai thi hành Luật. Không những thế, công tác kiện toàn biên chế bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi thường còn hạn chế, chủ yếu là kiêm nhiệm; việc xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật còn chậm so với yêu cầu của Chị thị 1565/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành Luật còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai, thi hành Luật; công tác phổ biến, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân còn chưa sâu rộng đến các đối tượng là tổ chức, cá nhân; công tác phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường giữa cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án và tố tụng thiếu đồng bộ, chưa thống nhất cao…
- Đâu là giải pháp khắc phục trong thời gian tới, thưa Thứ trưởng?
- Để tiếp tục triển khai có hiệu Luật TNBTCNN, Hội nghị sơ kết 3 năm thi hành Luật TNBTCNN sẽ tập trung đánh giá toàn diện công tác triển khai, thi hành để nhận diện cho được những hạn chế, vướng mắc trong các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như công tác tổ chức thi hành Luật, từ đó tìm ra những nguyên nhân để đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm tiếp tục đưa Luật thực sự đi vào cuộc sống.
Một trong những giải pháp quan trọng là sẽ nghiên cứu để đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN.
Theo báo cáo về kết quả sơ kết 3 năm thực hiện Luật TNBTCNN của các bộ, ngành, địa phương, nhiều ý kiến đề nghị xem xét sửa đổi một số nội dung Luật. Chẳng hạn, về phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN, nhiều ý kiến đề nghị ngoài hoạt động quản lý hành chính cần mở rộng hơn phạm vi điều chỉnh bao gồm cả những hoạt động khác của các cơ quan nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân tổ chức. Hay về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, cần quy định thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự về căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Còn đối với thời hiệu yêu cầu bồi thường, một số ý kiến đề nghị Luật TNBTCNN không nên quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường mà nên áp dụng thời hiệu của pháp luật dân sự, vì thực chất yêu cầu bồi thường theo Luật TNBTCNN cũng là quan hệ dân sự. Về thủ tục cấp phát kinh phí, có nhiều đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng giao nhiệm vụ lập dự toán ngân sách và cấp kinh phí thực hiện TNBTCNN cho từng Bộ, ngành quản lý (ở Trung ương) và cho Sở Tài chính (cấp tỉnh) và Phòng Tài chính – Kế hoạch (cấp huyện) quản lý.
Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai có hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về TNBTCNN. Tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác bồi thường. Thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về BTNN. Đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất, đồng thời kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác quản lý nhà nước về công tác BTNN tại các Bộ, ngành, địa phương.
Nâng cao chất lượng công chức làm công tác bồi thường theo hướng tập trung đào tạo, bồi dưỡng theo chiều sâu, tăng cường kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kinh nghiệm giải quyết bồi thường nhằm xây dựng đội ngũ công chức làm công tác bồi thường có chuyên môn cao, có đạo đức và uy tín nghề nghiệp để thực hiện có hiệu quả trên cơ sở xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả Luật TNBTCNN. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND các cấp cũng cần tăng cường hơn nữa trách nhiệm thực hiện Chỉ thị số 1565/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật TNBTCNN.
2. Báo Hà Nội mới có bài Chủ động hướng về dân. Bài báo phản ánh: Trung bình mỗi năm các phòng, ban chức năng của Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh phải tiếp nhận, giải quyết hơn 30.000 hồ sơ lý lịch tư pháp nên không tránh khỏi việc trễ hẹn khi giải quyết hồ sơ cho người dân.
Để khắc phục tình trạng này, từ tháng 5-2013, Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh đã phối hợp với Bưu điện thành phố thực hiện giao kết quả giải quyết hồ sơ lý lịch tư pháp, bản sao hộ tịch tận nhà. Người dân có nhu cầu sử dụng dịch vụ này chỉ cần đăng ký với Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh. Sau một tháng triển khai, dịch vụ này đã được nhiều người dân đồng tình ủng hộ. Không những thế, cán bộ bộ phận "một cửa" Sở Tư pháp cũng được giảm áp lực công việc do trước đây phải thực hiện quá nhiều giao dịch hành chính. Và trong tháng 5 này, ở một số quận, huyện của TP Hà Nội, công an đã đến tận nhà dân để hướng dẫn thủ tục, hướng dẫn kê khai chuyển đổi sở hữu phương tiện ô tô, xe máy giúp người dân đỡ mất công đi lại.
Trong khi công tác CCHC ở một số nơi còn chưa đi vào nền nếp, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân khi tham gia giao dịch hành chính thì sự chủ động, sáng tạo của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm đổi mới phương thức công tác, tạo thuận lợi, giảm chi phí cho người dân thật đáng trân trọng. Hiện ở các tỉnh, thành phố đều đang xây dựng, hoàn thiện Chỉ số CCHC khối quận, huyện, sở, ngành để đánh giá công tác CCHC của các đơn vị. Nên chăng cần coi trọng cách làm sáng tạo, hiệu quả của các đơn vị và dành số điểm thích đáng cho những đơn vị làm tốt tiêu chí chủ động, sáng tạo này. Đồng thời, các cơ quan quản lý cấp trên cũng nên sớm có hình thức động viên khen thưởng kịp thời những trường hợp trên bởi CCHC cũng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc bình xét thi đua khen thưởng hằng năm.
3. Trang Soha.vn có bài Vã mồ hôi đi công chứng văn bản có tiếng nước ngoài. Bài báo phản ánh: Những tưởng sau một thời gian lúng túng, việc chứng thực các văn bản song ngữ sẽ hoạt động trơn tru và người dân sẽ đỡ khổ vì không phải "vã mồ hôi" với thủ tục hành chính nữa. Song, thực tế đến nay tình trạng này vẫn chưa được cải thiện vì nhiều việc người dân đến xã, phường thì cán bộ ở đây lại chỉ lên quận, huyện để chứng thực, công chứng.
Theo Nghị định 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì UBND cấp xã, phường chỉ có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt và chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Các văn bản dù chỉ có 1 chữa tiếng nước ngoài phải chuyển lên cấp cao hơn là phòng Tư pháp cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Vô hình chung, Nghị định 79 vấn đề chứng thực văn bản song ngữ đã tạo nên nhiều vấn đề rắc rối không cần thiết đối với người dân. Cấp phường, xã thưa thớt. Cấp quận, huyện chen lấn, xếp hàng. Để được chứng thực một văn bản, có khi phải đi lại nhiều lần.
Bác T ở phường Phương Liệt (quận Đống Đa - Hà Nội) cho biết, vợ bác cần chứng thực hộ chiếu để đi nước ngoài. Khi đến bộ phận một cửa của UBND phường này để công chứng thì bị cán bộ ở đây từ chối chứng thực vì không phải thẩm quyền và chỉ lên Phòng Công chứng quận Đống Đa làm. Tất tả đội nắng lên quận làm giấy tờ mà vẫn không xong việc vì còn rất nhiều người đang xếp hàng chờ đến lượt.
Theo tìm hiểu của PV, không riêng Phòng Tư pháp quận Đống Đa mà các quận khác trên địa bàn Hà Nội cũng đang trong tình trạng quá tải, việc không làm xuể. Trong khi đó, các Văn phòng công chứng, bộ phận hành chính một cửa cấp phường (xã) lại đang rất… rảnh rỗi, không làm hết công suất của mình là điều bất hợp lý của công tác chứng thực, công chứng hiện nay.
Trao đổi về vấn đề này, Luật sư Quản Văn Minh, Giám đốc Công ty Luật số 5 Quốc gia (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho biết: Nghị định 04/2012/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 3/5/2012 sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79 quy định cụ thể thẩm quyền chứng thực của Phòng Tư pháp cấp huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) chứng thực văn bản song ngữ. Tuy nhiên, Nghị định này không hướng dẫn cũng như quy định cụ thể văn bản song ngữ là những văn bản nào, văn bản song ngữ và văn bản có tính chất song ngữ có giống nhau hay không. Thêm nữa, Nghị định này không bãi bỏ Thông tư 03 nên xảy ra nhiều ý kiến, áp dụng xử lý khác nhau về thẩm quyền chứng thực loại văn bản này.
Thứ nhất, có ý kiến cho rằng văn bản song ngữ khác với văn bản có tính chất song ngữ nên theo Nghị định 04 chỉ có Phòng Tư pháp mới có thẩm quyền chứng thực loại văn bản song ngữ, UBND cấp xã (phường) chỉ chứng thực loại văn bản có mang tính chất song ngữ theo quy định tại Thông tư 03.
Thứ hai, ý kiến ngược lại cho rằng, văn bản song ngữ và văn bản có tính chất song ngữ chỉ là một. Do đó, theo quy định của Nghị định 04 thì Phòng Tư pháp cấp huyện là cơ quan duy nhất có thẩm quyền chứng thực các loại văn bản này.
Thông tư 03 là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn Nghị định 04 nên theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì không áp dụng quy định tại Thông tư 03 nên chỉ có Phòng Tư pháp cấp huyện mới có thẩm quyền chứng thực.
Từ những ý kiến trái chiều nhau và pháp luật hiện hành chưa cụ thể nên ở địa phương cũng áp dụng và thực hiện công việc chứng thực khác nhau. Có nơi áp dụng khi công dân đến chứng thực văn bản song ngữ hay mang tính chất song ngữ thì UBND cấp xã hay Phòng Tư pháp huyện đều có thẩm quyền chứng thực. Có nơi áp dụng Nghị định 04 chỉ có Phòng Tư pháp huyện mới có thẩm quyền chứng thực các giấy tờ nêu trên. Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn cụ thể để thống nhất rõ ràng về thẩm quyền chứng thực văn bản song ngữ và văn bản có tính chất song ngữ để thuận tiện cho người dân hơn.
4. Báo Tuổi trẻ Online có bài Làm lại giấy chứng sinh sao quá khó! Bài báo phản ánh: Chị ruột tôi là Nguyễn Thị Châu, có hộ khẩu tại P.Tân Kiểng, Q.7, TP.HCM. Năm 2000, chị sinh cháu Nguyễn Thị Trúc Quỳnh. Hai mẹ con chị có cuộc sống khó khăn, phải ở trọ, bán vé số kiếm sống qua ngày. Cuối năm 2012, chị tôi đột ngột qua đời tại một phòng trọ ở tỉnh Long An sau cơn đột quỵ.
Đầu năm 2013, gia đình tôi đón cháu về nuôi. Khi tôi kiểm tra giấy tờ tùy thân để nhập hộ khẩu cho cháu mới biết bản chính giấy chứng sinh của cháu đã thất lạc, hiện chỉ còn một bản photo chứng nhận cháu sinh ở Bệnh viện Q.4, TP.HCM, vào ngày 30-4-2000. Vì công việc quá bận, tôi có nhờ anh Nguyễn Văn Sáng đi làm giùm các thủ tục nhập hộ khẩu cho cháu.
Anh Sáng tới Bệnh viện Q.4 xin lại giấy chứng sinh cho cháu Quỳnh. Sau khi nhận được mẫu đơn, anh được cán bộ bệnh viện hướng dẫn cần có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố và con dấu của phường vào đơn. Sau khi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ gồm hộ khẩu, đơn cớ mất và đơn xin cấp lại giấy chứng sinh đã có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, anh Sáng đến UBND P.Tân Kiểng, Q.7 nhờ đóng dấu chứng thực. Nhưng một cán bộ tư pháp của phường giải thích là theo mẫu đơn trên chỉ cần chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố chứ không cần phường chứng thực.
Khoảng ngày 20-5, anh Sáng đến gặp một lãnh đạo Bệnh viện Q.4 để trình bày những vướng mắc trong quá trình xin cấp lại giấy chứng sinh. Sau đó, lãnh đạo bệnh viện có hướng dẫn anh qua gặp một cán bộ phòng kế hoạch tổng hợp. Mặc dù anh giải thích hoàn cảnh gia đình cháu Quỳnh và nói rõ phường không thể xác nhận vào đơn nhưng cán bộ bệnh viện cho rằng dù ai đứng ra viết đơn cũng phải có con dấu của phường để tránh việc các đối tượng xấu lợi dụng. Khi đó, anh Sáng có nói rằng bệnh viện cứ nhận hồ sơ, còn chuyện đến nhận giấy chứng sinh sẽ do người thân của cháu cầm giấy tờ đến lấy. Tuy vậy, cán bộ bệnh viện vẫn một mực không làm thủ tục.
Tôi rất bối rối không biết xử lý việc này như thế nào để giúp cháu của mình. Tôi đi làm thuê, làm mướn cho người ta nên không có nhiều thời gian để nay chạy chỗ này, mai chạy chỗ kia làm giấy tờ. Tôi muốn làm giấy chứng sinh rồi tiếp tục làm giấy khai sinh, nhập hộ khẩu… để cháu có tương lai học hành, làm việc sau này, nhưng sao khó quá!
5. Báo GiadinhNet có bài Vụ “Người mang hai họ” ở Hải Dương: Phạm tội chiếm đoạt trẻ em. Bài báo phản ánh: Ngày 20/5, Báo GĐ&XH đăng bài “Chuyện lạ ở Hải Dương: Người mang hai họ” viết về hoàn cảnh của cháu Nguyễn Hải Quân có 2 giấy khai sinh, mang hai họ khác nhau và đang bị ông Đỗ Hải Minh chiếm giữ.
Luật sư Vũ Thái Hà, Công ty Luật TNHH YouMe cho rằng, Giấy khai sinh do UBND xã Thượng Vũ, huyện Kim Thành cấp cho cháu Quân là trái quy định của pháp luật khi chiếu theo khoản 3 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định: “Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Ủy ban Nhân dân cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”.
Tại Điều 34 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định về thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con quy định: “Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Đồng thời, “khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết”.
Ngày 5/7/2010, Đỗ Hải Minh làm thủ tục đăng ký khai sinh tại Ủy ban Nhân dân xã Thượng Vũ không có Giấy đăng ký kết hôn, như vậy, đây là trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú. Căn cứ vào các quy định nói trên, nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận là cha của đứa trẻ thì Ủy ban Nhân dân xã Thượng Vũ phải kết hợp giải quyết việc nhận cha cho con và đăng ký khai sinh. Khi làm thủ tục nhận cha cho con phải có sự có mặt và đồng ý của người mẹ.
Tuy nhiên, Ủy ban Nhân dân xã Thượng Vũ đã không tiến hành thủ tục nhận cha cho con, hoặc có mà thời điểm thực hiện thủ tục không có mặt người mẹ và người mẹ cũng không đồng ý việc nhận cha này. Cho nên, việc UBND xã Thượng Vũ cấp Giấy khai sinh số 35, quyển số: 01/2010 ngày 05/07/2010 theo yêu cầu của ông Đỗ Hải Minh là vi phạm các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký khai sinh.
Luật sư Vũ Thái Hà cho rằng, ông Đỗ Hải Minh cùng với hai người khác đến bắt cháu Quân có dấu hiệu của Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo quy định tại Điều 120 Bộ luật Hình sự hiện hành.
Sự việc đã quá rõ ràng, nhưng đến nay UBND xã Thượng Vũ, cũng như UBND huyện Kim Thành cùng các cơ quan hữu quan của huyện này vẫn chưa có bất kỳ động thái nào để giải quyết vụ việc.
Trong một diễn biến liên quan, ngày 24/5, làm việc với phóng viên GĐ&XH, ông Nguyễn Văn Dương, cán bộ tư pháp, hộ tịch xã Thượng Vũ cho biết, khi làm giấy khai sinh cho cháu Quân, anh Đỗ Hải Minh có làm thủ tục nhận cha, nhưng cũng chỉ có chữ ký của anh Minh, không có chữ ký của chị Hương. “Như thế thủ tục vẫn không đúng, theo quy định của pháp luật để công nhận anh Minh là cha cháu Quân”, ông Dương nói. Dù vậy, ông Dương cho rằng, cũng phải trong tuần này mới mời chị Hương (mẹ cháu Quân – PV) đến làm việc, chuyện giải cứu cháu Quân về với mẹ vẫn không được đề cập tới.
Đáng chú ý, “hồ sơ nhận cha con” mà ông Dương nói ở trên, qua so sánh với tài liệu vụ việc, có nhiều dấu hiệu cho thấy là hồ sơ mới được tạo dựng sau khi chúng tôi về làm việc với xã Thượng Vũ hồi đầu tháng 5. Khi ấy, Phó Chủ tịch UBND xã Thượng Vũ, ông Nguyễn Văn Thành cho biết hồ sơ đăng ký khai sinh cháu Quân chỉ có Giấy chứng sinh. Hiện việc phát sinh “hồ sơ nhận cha con” đã được chúng tôi gửi tới các cơ quan có trách nhiệm xác minh.
III- CÁC THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Đại đoàn kết có bài Tòa án Gia đình và Người chưa thành niên. Bài báo phản ánh: "Phải thành lập Tòa án (TA) Gia đình và Người chưa thành niên (NCTN) theo hướng là TA chuyên trách nằm trong hệ thống TAND theo tinh thần cải cách tư pháp” là ý kiến thống nhất được đưa ra tại Tọa đàm tham vấn chính sách, góp ý vào Dự thảo Đề án TA gia đình và NCTN ở Việt Nam do Viện Khoa học Xét xử (TANDTC) tổ chức mới đây.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 14.000 - 16.000 người CTN vi phạm pháp luật. Tình hình người CTN vi phạm pháp luật nói chung và người CTN phạm tội nói riêng vẫn chiếm tỷ lệ cao với mức độ ngày một nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta chưa có Tòa người CTN hoặc các phòng xét xử riêng để tiến hành tố tụng đối với người CTN phạm tội. Ngoài thành viên Hội đồng xét xử, luật sư và người đại diện của bị cáo, nhìn chung môi trường Tòa án và thủ tục tố tụng tại phiên tòa đối với người CTN về cơ bản giống với người đã thành niên. Trường hợp người CTN phạm tội cùng với người đã thành niên thì Tòa án sẽ mở phiên tòa chung để xét xử. Phải đứng sau vành móng ngựa trong không khí trang nghiêm của phòng xét xử, thái độ nghiêm trọng của người thẩm vấn; mặt khác, do không được tư vấn pháp lý đầy đủ trước ngày xét xử... người CTN rất căng thẳng và sợ hãi.
Xuất phát từ thực tế trên Dự thảo Đề án thành lập Tòa Gia đình và Người CTN đang được Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) xây dựng nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác xét xử người CTN .
Theo TANDTC, hiện đang có 2 phương án về mô hình tổ chức, thẩm quyền của tòa này. Phương án 1, Tòa gia đình và người CTN là tòa chuyên trách nằm trong hệ thống TAND. Phương án 2, Tòa gia đình và người CTN được thành lập ở cấp sơ thẩm (cấp huyện hoặc khu vực) để giải quyết theo trình tự sơ thẩm các vụ việc về gia đình và người CTN. Ở cấp tỉnh, TAND cấp cao khu vực (nếu được thành lập), TANDTC sẽ thực hiện tương tự như phương án 1.
Bà Lê Thị Thu Ba – Phó ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương lại cho rằng, việc xây dựng và phát triển Đề án Toà án Gia đình và người CTN là việc làm cần thiết hiện nay. Tuy nhiên, đối với trẻ CTN phạm tội, cần hết sức hạn chế việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm giáo dưỡng, thay vào đó cần chú trọng hơn đến việc giáo dục trẻ ngay tại gia đình, cộng đồng.
Thực tế, việc thành lập Tòa án chuyên trách giải quyết vấn đề về người CTN nhận được sự đồng thuận của các cơ quan, bộ ngành và xã hội. Tuy nhiên, cũng có không ít ý kiến băn khoăn và kiến nghị trong quá trình xây dựng, Ban soạn thảo cần tính đến các yếu tố quan trọng như xây dựng đội ngũ thẩm phán có trình độ; tính khả thi khi đưa Đề án áp dụng trong thực tiễn; các vấn đề liên quan đến kinh phí, nhân sự, cơ sở vật chất… cũng cần phải được tính toán sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Dự kiến, trong năm 2012 – 2013, Đề án sẽ được trình Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp, xây dựng bộ tài liệu tập huấn về nghiệp vụ, kỹ thuật xét xử cũng như các kiến thức khác về hôn nhân, gia đình, đặc điểm tâm sinh lý của NCTN, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, kỹ năng xét xử NCTN phạm tội; để sau năm 2013 sẽ xây dựng, trình QH các dự án luật (sửa đổi, bổ sung) liên quan đến TA chuyên trách này.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nỗ lực "bịt lỗ hổng" để "khai tử" taxi "dù". Bài báo phản ánh: Thời gian gần đây tại Hà Nội, hiện tượng ăn gian tiền cước của tài xế taxi liên tục xảy ra đối với khách nước ngoài hoặc người từ nơi khác đến. Điều đáng nói là dù trong suốt thời gian qua lực lượng chức năng đã ra quân kiểm tra, xử lý các sai phạm với nhiều cuộc thanh kiểm tra, nhưng hoạt động taxi ở Hà Nội vẫn không cải thiện được.
Hiện nay, Nghị định 91, 93 của Chính phủ và Thông tư 14 của Bộ GTVT ban hành đã tạo điều kiện cấp phép rất dễ trong việc đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, đôi khi đây chính là kẽ hở dẫn đến việc số lượng xe taxi phát triển quá nhanh và hoạt động bát nháo.
Thực tế, khi doanh nghiệp vận tải taxi đăng ký kinh doanh có thống kê số lượng xe taxi, nhưng nhiều hãng có vài ba chiếc đi gom góp, thuê phương tiện đeo thương hiệu và "bán cái" cũng xin thành lập hãng. Mỗi xe mua thương hiệu chỉ cần đóng tiền thuế hàng tháng cho hãng, ăn chia phần trăm vì vậy mà nhiều doanh nghiệp không thống kê hết số xe. Điều này tạo điều kiện cho hãng kiếm lợi nhuận và trốn thuế Nhà nước.
Về vấn đề này, ông Khuất Việt Hùng, quyền Vụ trưởng Vụ vận tải (Bộ GTVT) cho rằng, cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp phép kinh doanh taxi thì cũng hoàn toàn có thể rút phép. “Luật pháp có đủ quy định và đủ điều kiện để quản lý, nhưng quan trọng là có làm hay không?. Bảo quản lý taxi khó, đương nhiên là khó, nhưng khó không có nghĩa là bất khả. Ở đây cần phải khẳng định, cơ quan quản lý Nhà nước đã làm tốt trách nhiệm công tác thanh tra, kiểm tra hay chưa bên cạnh việc cứ kêu ca doanh nghiệp và lái xe làm chưa đúng”, ông Hùng nói.
Cũng liên quan đến những “lỗ hổng” trong quản lý taxi, ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó giám đốc Sở GTVT Hà Nội cho rằng, tới đây sẽ có quy định mỗi doanh nghiệp kinh doanh taxi phải có bao nhiêu xe thì mới được kinh doanh. Đặc biệt, để hoạt động taxi thủ đô đi vào khuôn khổ, ông Linh cho biết, Sở đã xây dựng một quy định về quản lý taxi để trình UBND TP phê duyệt. Trong đó, quy định quan trọng nhất là các hãng taxi phải lắp đồng hồ tính tiền có hoá đơn.