Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 5 năm 2013

09/05/2013
Trong các ngày 08/5/2013 và đầu giờ sáng ngày 09/5/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin Chung kết Hội thi thuyết trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ”. Bài báo phản ánh: Sáng 8-5, tại Hà Nội, Đảng ủy Khối các cơ quan T.Ư tổ chức chung kết Hội thi thuyết trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ”.

            Đến dự có các đồng chí đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo T.Ư, Đảng ủy Khối các cơ quan T.Ư, Bộ phận giúp việc của Ban Bí thư T.Ư Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; các chuyên gia hàng đầu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng dự có các đoàn viên, thanh niên tiêu biểu của các đơn vị, cơ quan trực thuộc Đảng bộ Khối.

            Hội thi là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng của Đảng bộ Khối cơ quan T.Ư trong kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong năm 2013, là hoạt động thiết thực kỷ niệm 123 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2013).

            Hội thi nhằm tiếp tục tuyên truyền sâu rộng việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Người trong các cấp bộ đảng của Đảng bộ, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống, nhất là đạo đức công vụ, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm trong thực thi công vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và quần chúng trong các cơ quan T.Ư, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ Khối trong tình hình mới.

            Tại vòng chung kết, Ban Giám khảo đã trao giải nhất cho thí sinh của Đảng ủy Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; 2 giải nhì thuộc về Đảng ủy cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội; 3 giải ba thuộc về Đảng ủy cơ quan Ngân hàng Nhà nước, Đảng ủy Bộ Tư pháp và Đảng ủy Bộ Khoa học và Công nghệ.

            Giải thưởng dành cho 7 thí sinh có bài viết tốt nhất thuộc các Đảng ủy: Văn phòng Chính phủ; Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Giao thông vận tải và Đài Tiếng nói Việt Nam.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Xem xét hạ tuổi kết hôn để phù hợp thực trạng... tảo hôn?. Bài báo phản ánh: Tuổi kết hôn - luật định rành rành, nhưng vi phạm cũng rất nhiều. Và, đáng bàn hơn nữa, khi chính vì những vi phạm đó mà các chuyên gia cân nhắc để… sửa luật.

Là một trong những địa phương có con số tảo hôn cao của tỉnh Sơn La, xã Lóng Luông huyện Mộc Châu từ năm 2005 đến nay có khoảng 390 cặp kết hôn thì có đến 204 cặp vợ chồng tảo hôn ở lứa tuổi từ 12 đến 17 tuổi, chiếm gần 52% cặp vợ chồng đã kết hôn.

Theo Chủ tịch UBND xã ông Tếnh A Chìa, dân cư trong xã đa số là đồng bào Mông, chiếm gần 87% dân số, thế nên một số gia đình, dòng họ còn bị hủ tục trói buộc, chưa nhận thức rõ Luật Hôn nhân và gia đình, dẫn đến vi phạm.

Ở Sơn La, không riêng gì Lóng Luông mới có nhiều vợ chồng trẻ con. Theo ông Trần Đình Thuận, Chi cục phó DS-KHHGĐ tỉnh Sơn La, ở các xã Vân Hồ tỷ lệ tảo hôn là 68% so với tổng số cặp kết hôn, Lóng Sập (huyện Mộc Châu) chiếm 49%, Kim Bon, Tân Lang (huyện Phù Yên) từ 25,4 đến 39%, Tà Xùa (huyện Bắc Yên) là 35%, Muổi Nọi (huyện Thuận Châu) là 27%.

Ông Trần Văn Minh, Phó phòng Tư pháp huyện Mộc Châu cho biết, theo kế hoạch của UBND huyện, tháng nào phòng cũng phối hợp với UBND các xã thuộc huyện để tuyên truyền pháp luật, trong đó có Luật HN-GĐ. Tuy nhiên, người dân nghe xong để đó, ít làm theo vì trong suy nghĩ của họ hủ tục, lề thói vẫn còn rất nặng nề.

Theo Luật HN-GĐ hiện hành, tuổi được phép kết hôn hiện nay của nữ là 18, nam là 20. Sau 13 năm thực thi, Báo cáo tổng kết thi hành luật cho thấy  về tính phù hợp với thực tiễn, tuổi kết hôn theo Luật hiện hành chưa gắn với đặc thù về tuổi kết hôn trong tập quán ở một số cộng đồng các dân tộc ít người thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi trên thực tế, tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại ở các nhóm cộng đồng này.

Thế nên, trong quá trình sửa luật, câu chuyện về nên giữ hay hạ độ tuổi kết hôn đã nhiều lần làm nóng bàn nghị sự cũng như các diễn đàn báo giới.

Xuất phát từ thực tiễn địa phương, đóng góp ý kiến cho quá trình sửa luật, Sở Tư pháp Sơn La đề xuất Luật HN&GĐ cần sửa đổi bổ sung và quy định cụ thể hơn về độ tuổi kết hôn để đảm bảo sự thống nhất, dễ áp dụng, phù hợp với thực tiễn và phong tục tập quán của một số dân tộc ít người trên địa bàn tỉnh nói riêng và trong cả nước nói chung.

TS Ngô Thị Hường, Trường ĐH Luật Hà Nội lập luận việc xác định tuổi được kết hôn phải dựa trên cơ sở tâm sinh lý của người kết hôn và phong tục tập quán địa phương nơi họ sinh sống. TS Hường đã  mạnh dạn đề xuất hạ độ tuổi kết hôn đối với nữ xuống 17 tuổi, thậm chí 16 tuổi.

TS Tạ Thị Minh Lý, Chủ tịch Hội Bảo trợ tư pháp cho người nghèo Việt Nam thì cho rằng, bên cạnh việc nên giữ nguyên độ tuổi kết hôn như hiện nay, luật cũng nên có quy định “mềm” đối với người dân tộc thiểu số vốn có truyền thống dựng vợ gả chồng sớm hơn quy định trong luật hiện hành…

Tuy nhiên, quan điểm hạ độ tuổi kết hôn của các nhà làm luật đã bị phản ứng quyết liệt từ các chuyên gia y tế, xuất phát từ quan điểm, trên phương diện y học, người nữ 16 tuổi chưa thể đủ chín chắn, chưa có nhiều kiến thức về sức khỏe sinh sản để có thể làm một người mẹ tốt. Chưa kể đến việc đó có thể là nguyên nhân làm bùng nổ dân số, số ca đẻ khó, tai biến sản khoa sẽ tăng lên, số trường hợp mổ đẻ cũng tăng cao bởi ở tuổi 16 nữ giới chưa phát triển đầy đủ.

Mặt khác, theo pháp luật hiện hành, nhiều giao dịch (về bất động sản, tín dụng...) đòi hỏi chủ thể của giao dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy, quy định này của Luật HN-GĐ hiện hành gây ra những khó khăn khi vợ chồng giao kết hợp đồng với người thứ ba.

Hơn nữa, về tư cách tố tụng, khoản 3 Điều 57 Bộ luật TTDS quy định một cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi đã đủ 18 tuổi trở lên. Theo quy định của Luật HN-GĐ, vợ chồng có quyền tự do yêu cầu ly hôn, trong đó có cả trường hợp người vợ chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của người vợ không thể thực hiện nếu đến thời điểm có yêu cầu ly hôn, họ chưa đủ 18 tuổi.

Khi thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản liên quan, đặc biệt là Nghị định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc xác định hành vi vi phạm bạo lực gia đình, đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vợ là khó khăn vì nếu vi phạm ngay sau khi kết hôn thì người vi phạm chưa đủ 18 tuổi, chưa thành niên…

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Có tước thẻ CTV khi không thực hiện TGPL trong 6 tháng?. Bài báo phản ánh: Tại điểm a, khoản 1, Điều 30 Nghị định 07/2007/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL đã nêu “ Thẻ CTV bị thu hồi khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: CTV không thực hiện TGPL trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày được cấp thẻ CTV, trừ trường hợp có lý do chính đáng”.

Có thể khẳng định, việc đưa quy định như vậy là nhằm tạo sự ràng buộc trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của CTV. Mong muốn của nhà làm Luật là thông qua hoạt động của CTV làm hạn chế những mâu thuẫn nhỏ, tranh chấp phát sinh tại cơ sở, đôi lúc nếu không kịp thời ngăn chặn thì “chuyện bé xé to”, dẫn đến tình trạng khiếu kiện vượt cấp, gây khó khăn cho cơ quan Tòa án và chính quyền các cấp. Và cũng thông qua đó, góp phần tích cực đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống ở cơ sở. Mặt khác, quy định như vậy cũng nhằm tránh tình trạng “đánh trống, ghi danh” dẫn đến số lượng CTV tuy đông nhưng số vụ việc thực hiện TGPL thực tế lại ít, không tương xứng với đòi hỏi khách quan của công tác TGPL ở địa phương…

Nếu vậy thì hiểu sao cho đúng các quy định của Nghị định 07/2007/NĐ-CP? Đây là một vấn đề khó. Do các văn bản quy định về CTV (Quyết định số 05/2008/QĐ-BTP ngày 13/5/2008 và Thông tư số 07/2012/TT-BTP ngày 30/7/2012 về CTV TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước) không giải thích, hướng dẫn thế nào là “kể từ ngày được cấp thẻ CTV” “lý do nào được xem là chính đáng” cho nên đã có không ít cách hiểu khác nhau, đa số hiểu như sau.

“Kể từ ngày được cấp thẻ CTV” được hiểu là kể từ thời điểm ký hợp đồng cộng tác với Trung tâm đến quá 6 tháng, CTV đó không thực hiện được một vụ việc TGPL nào thì vi phạm quy định này. Đương nhiên, CTV đó sẽ bị tước thẻ theo quy định.  Còn nếu ngay từ khi ký kết hợp đồng cộng tác với Trung tâm, CTV đó có thực hiện TGPL (dù chỉ 1 vụ việc tư vấn miệng đơn giản), sau đó CTV không thực hiện TGPL. Việc không thực hiện TGPL của CTV kéo dài năm này qua năm khác. Với suy nghĩ trên, CTV sẽ không rơi vào trường hợp bị tước thẻ CTV.

Về quan điểm thế nào là “có lý do chính đáng”, đa số CTV là cán bộ đương chức cho rằng lý do chính đáng là bận công tác chuyên môn, được cử đi học nghiệp vụ hoặc đi công tác xa dài ngày; địa bàn mà CTV đó sinh sống, công tác không có vụ việc xảy ra, người dân không có nhu cầu cần được TGPL. Có thể có vụ việc xảy ra, người dân có nhu cầu nhưng vụ việc đó không thuộc phạm vi đăng ký, ký hợp đồng với Trung tâm…

Qua trao đổi với nhiều người có thâm niên làm công tác TGPL về cách hiểu “thế nào là có lý do chính đáng?”, chúng tôi đã nhận được sự đồng thuận tương đối cao về cách hiểu này.

Thời gian qua, các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở nhiều địa phương được tổ chức thực hiện rất tốt. Chính quyền ở địa phương đã huy động được toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc, các tổ chức trên địa bàn như Hội Phụ nữ, Cựu chiến binh, Nông dân hoặc các tổ chức tôn giáo tại địa phương đã làm rất tốt công tác tuyên truyền vận động. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai kịp thời tại cơ sở nên người dân hiểu, nhận thức pháp luật được nâng cao. Nhờ vậy, rất ít có tranh chấp phát sinh.

Trường hợp nếu có mâu thuẫn xảy ra, các hòa giải viên của tổ hòa giải cũng kịp thời có mặt để giải tỏa tranh chấp, hàn gắn tình làng nghĩa xóm và kết hợp phổ biến các quy định của pháp luật cho các bên. Vì thế, ở những địa phương đó, việc các CTV của Trung tâm TGPL thường xuyên bị “thất nghiệp” cũng là điều dễ hiểu. Cũng chính vì thế, nếu áp quy định “Thẻ CTV bị thu hồi nếu CTV không thực hiện TGPL trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày được cấp thẻ CTV” thì quả thật là khó cho Trung tâm nơi ký hợp đồng cộng tác với CTV đó. 

Có thể nói, khi văn bản pháp luật chưa có quy định cụ thể, rõ ràng; văn bản hướng dẫn, giải thích chưa đề cập đến thì sẽ tạo điều kiện cho mọi người có nhiều cách hiểu khác nhau. Vì thế, quan điểm của nhiều người cho rằng, khó áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 30 của Nghị định 07/2007/NĐ-CP vào thực tiễn.

II- CÁC THÔNG TIN KHÁC

Báo Thời báo kinh tế Sài Gòn Online có bài Luật Lao động gây quan ngại cho doanh nghiệp. Bài báo phản ánh: Luật Lao động đang làm tăng gánh nặng cho doanh nghiệp và người lao động vốn đang bị tác động lớn bởi kinh tế rất khó khăn. Lo ngại này đã được đại diện các doanh nghiệp và luật sư bày tỏ tại hội thảo “Tác động của chính sách pháp luật lao động đến quản trị doanh nghiệp” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức ngày 8-5 tại Hà Nội.

Theo lộ trình tăng lương tối thiểu đã được phê duyệt, tiền lương tối thiểu sẽ đạt 100% “nhu cầu sống tối thiểu của người lao động” vào năm 2015.

Luật sư Phạm Chí Trung, Công ty Baker&McKenzie Việt Nam cho biết, chỉ trong năm 2012, tỷ lệ tăng lương tối thiểu chung là 26,5%. Bên cạnh đó, mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuỳ theo từng vùng là 27% hay 32%.

Những mức tăng này là cao chưa từng có trong tất cả các kỳ tăng lương gần đây.

Lo ngại mức gia tăng này sẽ tiếp đà theo Luật Lao động, luật sư Trung - đại diện cho Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam nói: “Những thay đổi này khiến cho người sử dụng lao động phải chi trả nhiều hơn cho lao động trong khi đang chịu suy thoái kinh tế”.

Ông cho rằng, doanh nghiệp luôn cảm thấy bất an khi chính sách luôn bị thay đổi.

Ông nói: “Chúng tôi kiến nghị trong tương lai, bất kỳ luật nào hoặc quy định nào làm gia tăng chi phí lao động - cả chi phí gián tiếp lẫn chi phí trực tiếp - đều cần chỉ rõ lộ trình thực hiện".

Ông Chih-Peng Huang, Trưởng đại diện Văn phòng Văn hóa Kinh tế Đài Bắc tại Hà Nội bổ sung, hầu hết các công ty Đài Loan đều trả cho người lao động mức lưong cao hơn lương tối thiểu theo Luật Lao động quy định. Ngoài ra, họ còn trả thêm thưởng.

Tuy nhiên, ông nói, hầu hết người lao động không cảm nhận được mức tăng thu nhập do lạm phát nghiêm trọng ở Việt Nam mấy năm gần đây.

Đại diện Hiệp hội Da giày Việt Nam cho rằng, theo quy định quy định trong dự thảo luật thì mức lương tối thiểu theo vùng và đang có sự khác biệt giữa người lao động trong khu vực doanh nghiệp có vốn nhà nước với doanh nghiệp ngoài nhà nước.

Vị đại diện cho rằng, quy định như vậy không bảo đảm sự bình đẳng giữa những nhóm người lao động và giữa các khu vực cho dù họ có cùng ngành nghề lao động; đồng thời dẫn đến mất khả năng tự điều tiết việc phân bố lao động giữa các vùng miền.

Hơn nữa, vị đại diện cho rằng, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu sẽ khiến doanh nghiệp khó khăn vì một khi thông tin điều chỉnh sẽ khiến cho người lao động dao động không tập trung công việc và phát sinh các hoạt động đình công, bãi công diễn ra.

Một khảo sát của VCCI công bố tại hội thảo cho biết, hơn 50% số doanh nghiệp cho rằng, việc tăng lương tối thiểu trong năm 2013 là không thoả đáng vì mức tăng quá thấp không đáng kể so với thời giá. Bên cạnh đó lương tối thiểu tăng kéo theo quỹ lương tăng, tiền đóng bảo hiểm tăng và làm đội giá thành sản phẩm, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và người lao động.

Luật Lao động quy định, trong trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày, 30 giờ/tháng và 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm không quá 300 giờ/năm.

 “Theo tôi, quy định về thời gian làm thêm là không khả thi với các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam. Vì thế, nên để doanh nghiệp tự quyết định số giờ làm thêm”, ông nói.

Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Nguyễn Văn Toàn phàn nàn rằng, dù các doanh nghiệp FDI và Việt Nam đã kiến nghị rất nhiều lần về thời gian làm thêm giờ của người lao động, song các nhà hoạch định chính sách không hề lay chuyển quan điểm.

Ông cho biết, đa số người lao động có nhu cầu làm thêm giờ để tăng thu nhập vừa có lợi cho họ, vừa có lợi cho doanh nghiệp. “Quy định giờ làm thêm không quá 200 giờ một năm là không hợp lý, nên áp dụng 360 giờ/năm”, ông nói.



File đính kèm