I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Trang vov.vn có bài Chính phủ đề nghị lùi thời hạn trình 3 dự án Luật. Bài báo đưa tin: Dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, tiếp tục phiên họp thứ 17, chiều 15/4, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2014 và điều chỉnh Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2013.
Theo Chương trình, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 6 dự án Luật đã được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4. Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 5 dự án Luật được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5.
Thảo luận tại phiên họp, các thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tán thành với tờ trình của Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, trong đó, đề nghị đưa 55 dự án gồm 53 luật và 2 pháp lệnh vào Chương trình năm 2014, trong đó có 42 dự án thuộc Chương trình chính thức và 13 dự án luật thuộc Chương trình chuẩn bị.
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho rằng: Số lượng dự án Luật, pháp lệnh như vậy là quá nhiều, do đó những bước chuẩn bị Luật phải thật kỹ càng:
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: Việc bố trí các dự án Luật trong từng kỳ họp cần theo thứ tự ưu tiên, xem xét đưa vào Chương trình các dự án cần thiết đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, không dồn quá nhiều dự án vào một cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để bảo đảm tính khả thi của Chương trình và chất lượng dự án Luật. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng để nghị Bộ tư pháp và Ủy ban Pháp luật xem xét, rà soát lại những dự án Luật nào đã chuẩn bị kỹ để đưa vào chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh chính thức.
Cũng tại phiên họp chiều nay, đại diện Chính phủ đề nghị lùi thời hạn trình 3 dự án Luật trong năm 2013 là: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề; Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Luật Hải quan (sửa đổi). Riêng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề, Chính phủ đề nghị lùi thời hạn sang cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại Kỳ họp thứ 8 để có thêm thời gian nghiên cứu, thể chế hóa đầy đủ kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Luật hóa việc đặt tên cho con? Bài báo phản ánh: Theo quy định pháp luật hiện hành, chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể việc đặt họ và tên khi đăng ký khai sinh cho một công dân. Bình thường thì không sao, nhưng từ năm 1991 trở lại đây, nhiều gia đình lại sính “ngoại”, đặt tên cho con theo kiểu “Đông -Tây kết hợp”.
Năm 2003, ông Nguyễn Hữu Phương, quốc tịch Việt Nam và bà Ngô Kim Thùy, cũng quốc tịch Việt Nam đã tới UBND xã Tân Thành, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp đăng ký khai sinh cho con là Nguyễn Phương Vivian. Bà Hồ Thị Kim Em lại tới UBND xã Phong Hòa đăng ký khai sinh cho con là Nguyễn Thành Spring.
Hiện nay, nếu công dân có đến UBND cấp xã đăng ký khai sinh với những cái tên có xen lẫn tiếng nước ngoài thì thường bị cán bộ hộ tịch từ chối giải quyết và hướng dẫn cha, mẹ đứa trẻ nên sử dụng tiếng Việt để đặt tên cho con mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đương sự quyết định chọn cái tên có tiếng nước ngoài để đặt cho con thì buộc lòng cán bộ hộ tịch phải giải quyết vì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch không có điều nào hướng dẫn cụ thể họ tên của một công dân khi được đăng ký khai sinh thì phải được đặt tên hoàn toàn bằng tiếng Việt hay có thể xen lẫn một số tiếng nước ngoài.
Điểm c, Khoản 1, Mục III Thông tư số 01/2008/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP hướng dẫn trường hợp trẻ em có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, còn người kia là công dân Việt Nam; cha và mẹ có đăng ký kết hôn; trẻ em về nước cư trú, thì nếu cha, mẹ chọn quốc tịch Việt Nam cho con, thì tên của trẻ em là tên Việt Nam (ví dụ: Đỗ Nhật Thành) hoặc tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài (ví dụ: Đỗ Nhật Randy Thành) theo sự lựa chọn của cha, mẹ.
Nhưng quy định này chỉ áp dụng cho trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài thẩm quyền giải quyết thuộc Sở Tư pháp. Còn trong trường hợp cha, mẹ là người Việt Nam, đăng ký tại UBND cấp xã thì Nghị định 158 lẫn Thông tư 01 không hướng dẫn.
Nhiều cán bộ hộ tịch cho biết rất vướng khi gặp phải các trường hợp này. Nếu từ chối việc đặt tên kiểu “Đông - Tây kết hợp” thì không có quy định cụ thể để làm căn cứ từ chối. Còn nếu cho phép đặt tên kiểu này thì lại ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục.
Luật Hộ tịch đang được xây dựng cần có quy định cụ thể về vấn đề này.
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Quản lý hôn nhân "xuyên biên giới" ở Quảng Trị. Bài báo phản ánh: Ở tỉnh Quảng Trị có 18 xã thuộc hai huyện Hướng Hóa và Đakrông có biên giới giáp với hai tỉnh Sa-vẳn-na-khệt và Sa-la-van (Lào), có hơn 12.300 hộ gia đình, với 58.000 nhân khẩu, trong đó, hơn 95% dân số là đồng bào dân tộc Pa Kô, Vân Kiều. Ở đây, tình trạng hôn nhân không đăng ký kết hôn giữa cư dân hai bên biên giới vẫn còn nhiều và có xu hướng ngày càng tăng dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác quản lý.
Người dân giữa các địa phương ở Quảng Trị sống chung cùng đường biên giới với nước bạn Lào qua lại, làm ăn, buôn bán sinh sống và có mối quan mật thiết với nhau. Vì vậy tình trạng hôn nhân "xuyên biên giới" không đăng ký chính quyền địa phương diễn ra khá phổ biến. Các trường hợp này đều có con và tài sản chung với nhau nhưng không ràng buộc nhau bởi bất cứ thủ tục pháp lý nào. Thậm chí có nhiều trường hợp từ hai tỉnh Sa-vẳn-na-khệt và Sa-la-van sang Việt Nam làm ăn, lập gia đình, sinh con đã lâu nhưng đến nay vẫn chưa nhập quốc tịch hay đăng ký kết hôn. Qua thống kê ở 17 xã, một thị trấn sát biên giới có 205 hộ, với 1.052 nhân khẩu người Lào nhập cư, hơn 149 trường hợp người Lào kết hôn với người Việt Nam nhưng không đăng ký kết hôn...
Theo khảo sát của Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tiến hành với các đối tượng chung sống không đăng ký kết hôn tại 14/18 xã khu vực biên giới có hơn 60% đối tượng là những người không biết chữ. Đồng bào dân tộc Pa Kô, Vân Kiều từ xa xưa lấy nhau đều không đăng ký kết hôn, chủ yếu sống theo phong tục dân tộc, chỉ cần có sự đồng ý của già làng, trưởng bản mà không cần tiến hành đăng ký kết hôn nên các cặp vợ chồng chưa nhận thức hết tầm quan trọng của việc đăng ký, không trình báo các cơ quan chính quyền xem xét, quyết định. Bên cạnh đó, đa phần họ là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức còn hạn chế, mà thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta còn phức tạp cần nhiều giấy tờ chứng nhận nên dẫn đến tâm lý “ngại” đăng ký.
Thời gian qua, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị phối hợp với các cơ quan, ban, ngành triển khai nhiều hoạt động nhằm giải quyết tình trạng sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở 18 xã biên giới. Hội Luật gia đã khảo sát thông tin từ người dân và cán bộ tư pháp, hộ tịch xã về thực trạng chung sống như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở các địa phương; xây dựng kế hoạch, tổ chức cho các đoàn trực tiếp về 14 điểm của 18 xã, thị trấn vùng biên giới để hỗ trợ pháp lý cho người dân và chính quyền cơ sở trong việc tuyên truyền, phổ biến một số quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục, hồ sơ đăng ký kết hôn khác quốc tịch...
Nhờ vậy, đến nay tỷ lệ các cặp nam nữ chung sống như vợ chồng có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới tỉnh Quảng Trị được cấp giấy chứng nhận kết hôn chiếm gần 80%. Qua đó, người dân có cơ hội nâng cao nhận thức, được giải quyết các vấn đề liên quan đến hộ khẩu, hộ tịch, khai sinh cũng như các chính sách xã hội...
Tuy nhiên, hiện nay còn hơn 70 cặp vợ chồng chưa thể đăng ký kết hôn do khó khăn trong thủ tục, giấy tờ. Trong thời gian tới, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị sẽ kiến nghị lên các cấp có thẩm quyền, đặc biệt là Bộ Tư pháp nhằm cải cách một số thủ tục hành chính có liên quan đến yếu tố nước ngoài khu vực biên giới đất liền. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để có thể dễ dàng thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn cho các cặp vợ chồng trên. Tiếp tục phối hợp với phòng tư pháp hai huyện miền núi Đakrông và Hướng Hoá tuyên truyền về tầm quan trọng của việc đăng ký kết hôn, vận động người dân tham gia thực hiện. Đồng thời, tăng cường hướng dẫn đăng ký khai sinh cho con các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn để các em có thể đến trường đi học…
4. Trang Zing.vn có bài Theo chân người dân đi làm thủ tục 'hành là chính'. Bài báo phản ánh: Khi chúng tôi có mặt ở UBND phường Thành Công (quận Ba Đình, Hà Nội) thì “đụng” ngay 2 cán bộ nữ. Ngồi ở ô “tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính”, nữ cán bộ trẻ cũng đeo bảng tên nhưng thòng khuất dưới bàn nên chẳng ai đọc được. Nghe hỏi về việc nộp hồ sơ chứng thực sao y, chị này lạnh lùng nói: “Bây giờ không tiếp nhận nữa”. “Hết thời gian hả em?”. Chị ta vẫn thủng thẳng: “Không phải hết thời gian, mà là nhiều hồ sơ quá không làm kịp, ngày mai chị quay lại”. “Bây giờ không thể tiếp nhận để mai trả hả em?”. Thấy chúng tôi vẫn kiên nhẫn, nữ cán bộ này mới chịu ngước lên một chút, rồi đáp: “Chị sang hỏi chị bên này”.
Đem câu hỏi cũ sang hỏi nữ nhân viên nhiều tuổi hơn (không đeo biển tên) ngồi ở bộ phận “Hộ tịch - Tư pháp - Chứng thực - Sao y bản chính”, chúng tôi nhận được câu từ chối tiếp nhận hồ sơ, kèm theo lý do "còn bao nhiêu người đang phải chờ”. Chúng tôi nằn nì đề nghị nộp luôn để mai quay lại lấy, chị ta cao giọng, nói như ra lệnh: “Đúng 8h sáng mai em đến đây mới làm được, 9h chưa chắc đã làm được, chiều lấy”.
Không riêng chúng tôi, nhiều người đến đây làm thủ tục đã không quên để lại “bút tích” ở cuốn sổ góp ý. “Tôi đã ra phường rất nhiều lần để công chứng giấy tờ nhưng tôi thấy cách làm việc của phường Thành Công so với các phường khác rất phiền hà, gây khó cho dân… Có lần tôi ra phường công chứng lúc 10h5, cán bộ nói hết giờ chiều ra. Chiều 15h15 tôi ra, cán bộ lại nói hết giờ bảo tôi ngày hôm sau ra. Còn hôm nay tôi ra công chứng lúc 8h sáng, cán bộ ghi giấy hẹn 16h cùng ngày. Tôi có đề nghị được lấy kết quả sớm hơn để còn kịp vào trường nộp học bạ và giấy tốt nghiệp cho cháu, cán bộ nói cứ ra sớm hơn, có thì lấy. Vậy mà 15h10 vẫn chưa nhận được kết quả. Tại sao ở phường Thành Công việc công chứng giấy tờ lại vất vả như vậy? Hay vẫn là cái câu từ thời bao cấp hành là chính?”, công dân Tôn Đào Anh, ngụ phòng 216 nhà G6B Thành Công, viết như vậy.
Chiều 11/4, phóng viên theo chân một công dân trở lại UBND phường Thành Công để làm thủ tục xin cấp thẻ bảo hiểm cho con mới sinh. Cháu bé tên Nguyễn V.P vừa được làm xong giấy khai sinh trong tháng 3, chưa có thẻ bảo hiểm y tế. Vì cháu đang nằm viện nên bố cháu đến phường hỏi thủ tục cấp thẻ bảo hiểm cho con để được miễn giảm viện phí, thì nhận được câu trả thờ ơ từ nữ cán bộ ngồi ở ô “Hộ tịch - Tư pháp - Chứng thực - Sao y bản chính”: Nếu giấy hẹn ghi tháng 6 thì cứ tháng 6 mới đến. Cuối tháng bọn chị chuyển hồ sơ lên trên quận rồi hơn một tháng sau quận chuyển lại. Khi đó mới có thẻ bảo hiểm. Nữ cán bộ ngồi ở bộ phận “Tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính” khẳng định thêm: “Nếu trường hợp cháu khai sinh trong tháng 3 thì phường đã chuyển hồ sơ làm bảo hiểm lên trên quận rồi”, và hướng dẫn lên Bảo hiểm xã hội của quận Ba Đình tại 71 Quán Thánh.
Tuy nhiên, tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình, cán bộ Nguyễn Thị Thùy Linh khẳng định chưa nhận được hồ sơ xin cấp bảo hiểm cho cháu P. từ UBND phường Thành Công chuyển lên.
Sáng 12/4, chúng tôi tiếp tục cùng bố cháu P. quay lại phòng làm thủ tục hành chính phường Thành Công để làm rõ, thì 2 nữ cán bộ ở đây, bằng thái độ miễn cưỡng tiếp chuyện và vẫn khẳng định chắc nịch là đã chuyển hồ sơ lên trên quận, đồng thời không quên dặn: “Nếu giấy hẹn ghi 1.6 thì cứ ngày đấy đến sẽ… có thẻ”.
5. Báo Người đưa tin có bài Xử phạt ngoại tình tính theo lần quan hệ là bế tắc. Bài báo phản ánh: Theo những quy định của pháp luật hiện hành thì muốn xử phạt hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng thì phải có bằng chứng chứng minh việc “ngoại tình” dẫn đến có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung, đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.
Việc chứng minh hành vi ngoại tình như Luật định trên thực tế là quá khó dẫn đến nhiều trường hợp có bắt quả tang nam nữ ăn ở, cùng nhau, ngủ cùng nhau (khi một bên đã có gia đình) nhưng không thể xử phạt. Do đó đã có không ít sáng kiến được đưa ra trong đó có ý kiến đề xuất rằng: cứ quan hệ thân xác ngoài luồng một lần thì xử phạt còn trên ba lần thì xử lý hình sự.
Theo như đề xuất thì một người đã có vợ (chồng) không cần phải chung sống như vợ chồng với người khác mới là ngoại tình. Chỉ cần họ có hành vi “trai trên gái dưới” với người khác, có một nhân chứng khách quan chứng kiến thì đã là vi phạm chế độ một vợ một chồng, đủ yếu tố để phạt. Trong trường hợp vi phạm đến ba lần thì nên coi đó là đã “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.
Đề xuất có vẻ như đã hợp lý hóa ra lại chưa hợp lý. Bởi lẽ nếu chỉ xét ngoại tình ở góc độ định lượng quan hệ bao nhiêu lần thì phải chăng đã đánh giá sai nguyên nhân, hệ quả của hành vi ngoại tình.
Bởi lẽ, không phải cuộc ngoại tình nào cũng được cân đo đong đếm bằng số lần quan hệ thân xác. Họ đôi khi chỉ là sống với nhau, ở cùng nhau. Vậy lấy đâu là định lượng để mà phạt hay xử lý hình sự đây? Hơn nữa có rất nhiều trường hợp "trai trên gái dưới" với người khác nhưng không thể coi là ngoại tình chẳng hạn như trường hợp của hành vi mua bán dâm. Về bản chất hành vi mua bán dâm là hoàn toàn khác với hành vi ngoại tình.
Lấy định lượng quan hệ mấy lần để xem xét trách nhiệm hình sự và cho rằng cứ ba lần là gây hậu quả nghiêm trọng thì vừa không đúng về mặt khoa học pháp lý lại vừa không đúng về mặt logic. Hậu quả pháp nghiêm trọng là những hậu quả thực tế xảy ra từ hành vi ngoại tình như ly hôn, tan nát gia đình, con cái, vợ chồng vì thế mà tự tử…Dĩ nhiên hệ quả ấy không xuất phá từ việc một lần hay ba lần. Nhiều trường hợp hành vi ngoại tình chỉ xảy ra một lần duy nhất, đầu tiên nhưng đã có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Và có những trường hợp dù hành vi ngoại tình xảy ra nhiều lần nhưng hậu quả lại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì không thể và không nên truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ vì đây là lần thứ ba.
Xử phạt hành vi ngoại tình đang nhận được sự quan tâm chú ý của nhiều người. Nhiều đề xuất, ý kiến đóng góp để đưa vấn đề xử phạt vào áp dụng thực tiễn. Tuy nhiên, không nên đặt vấn đề định lượng những lần quan hệ thân xác làm cơ sở để xem xét việc xử phạt cũng như truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi ngoại tình.