Điểm tin báo chí các ngày 13, 14 tháng 4 và sáng ngày 15 tháng 4 năm 2013

15/04/2013
Trong các ngày 13, 14/4 và đầu giờ sáng ngày 15/4/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Báo Thanh niên Online có bài Đề nghị kỷ luật Cục trưởng Thi hành án dân sự Tây Ninh. Bài báo phản ánh: Ngày 14.4, Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Tây Ninh xác nhận Đoàn kiểm tra của Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp) đã làm việc với cơ quan này để công bố kết luận khiếu nại tố cáo của ông Nguyễn Văn Hoàng, công chức Cục THADS tỉnh Tây Ninh, liên quan đến sai phạm của ông Nguyễn Văn Hóa, Cục trưởng Cục THADS tỉnh.

            Đoàn kiểm tra xác định ông Hóa đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm chức danh công chức cho người thân không đúng quy định.

            Cụ thể, trong đợt tuyển dụng công chức năm 2010 và 2011, ông Hóa cho miễn thực hiện chế độ tập sự đối với 4 trường hợp công chức dù không đủ điều kiện được miễn, trong đó có con ruột ông là Nguyễn Nhân Hiền (công tác ở Chi cục THADS TX.Tây Ninh) và con dâu là Trần Thị Thanh Thúy (công tác ở Chi cục THADS H.Hòa Thành). Ngoài ra, ông Hóa còn đưa con trai (tuyển dụng được 10 tháng) và con dâu (tuyển dụng được 7 tháng) tham gia học lớp quản lý nhà nước ngạch chuyên viên bằng nguồn kinh phí của Bộ Tư pháp; sau đó cả 2 lại được đưa đi đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên.

            Theo đoàn kiểm tra, việc cho người chưa phải là công chức của cơ quan thi hành án (Trần Thị Thanh Thúy chỉ mới là hợp đồng làm việc) đi học bằng nguồn ngân sách nhà nước là sai quy định; việc cử con trai và con dâu đi học lớp chấp hành viên cũng không đủ điều kiện (quy định phải công tác 3 năm trở lên). Chưa hết, tháng 8.2012, ông Hóa còn lập tờ trình đề nghị bổ nhiệm thẩm tra viên cho bà Thúy dù không đủ thời gian công tác pháp luật.

            Đoàn kiểm tra cũng xác định trong thời gian nắm cương vị cục trưởng, ông Hóa đã điều động, luân chuyển công chức chưa hợp lý, thiếu công khai dẫn đến không được sự đồng thuận của công chức được luân chuyển và địa phương tiếp nhận dẫn đến không đạt kết quả...

            Từ những sai phạm trên, đoàn kiến nghị Tổng cục trưởng Tổng cục THADS kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của Cục trưởng Cục THADS Tây Ninh, để có cơ sở đề nghị Bộ Tư pháp xử lý kỷ luật. Yêu cầu Cục trưởng Cục THADS Tây Ninh chỉ đạo khắc phục những sai phạm; kiểm điểm trách nhiệm của cá nhân, tập thể để có hình thức xử lý kỷ luật.

            2. Báo Tiền phong Online có bài Cựu Chi cục trưởng thi hành án bị phạt 5 năm tù. Bài báo đưa tin: Chiều ngày 12/4, sau 4 ngày xét xử, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên phạt bị cáo Đinh Thiên Tường (SN 1976, cựu Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa) 5 năm tù giam về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

            Tòa còn buộc bị cáo phải bồi thường cho gia đình ông Nguyễn Đức Trung (trú ở xã Hòa An, huyện Phú Hòa) 90 triệu đồng.

            3. Báo Hà Nội mới Online có bài Chữa bệnh “sính” bản chính. Bài báo phản ánh: Đang là thời điểm Bộ Tư pháp thanh, kiểm tra việc thực thi pháp luật về chứng thực tại UBND 18 quận, huyện trên địa bàn Hà Nội. Để có cái nhìn đa chiều, Báo Hànộimới đã khảo sát, lấy ý kiến người dân, chuyên gia pháp lý về vấn đề này. Kết quả cho thấy, vẫn còn tình trạng cơ quan công quyền chưa thực hiện nghiêm Nghị định 79/2007/NĐ-CP (NĐ79) của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, gây phiền hà, tốn thời gian đi lại của người dân.

            Mặc dù đã lên trang web của Bộ Tư pháp nghiên cứu kỹ thủ tục đăng ký nhập hộ khẩu cho con mới sinh và chuẩn bị đầy đủ giấy tờ cần thiết theo hướng dẫn, nhưng khi đến nộp tại Công an quận Cầu Giấy (62 Nguyễn Văn Huyên, quận Cầu Giấy, Hà Nội), chị Nguyễn Minh Hà (ở phường Yên Hòa, Cầu Giấy) vẫn không thoát khỏi cảm giác ngỡ ngàng. Khi được tiếp nhận hồ sơ mới biết, những thứ chị mang theo cần nhưng chưa đủ. Theo quy định áp dụng trên toàn quốc, người đi đăng ký nhập hộ khẩu cho trẻ cần mang một bản sao giấy khai sinh của trẻ (có dấu đỏ do UBND phường, xã cấp) và một bản photo, kèm theo sổ hộ khẩu… Thế nhưng, cán bộ thụ lý hồ sơ Trần Thị Thanh Hạnh lại yêu cầu phải có giấy khai sinh bản gốc của trẻ (để đối chiếu) và giấy khai sinh bản sao của trẻ (để lưu hồ sơ). Áp theo quy định hiện hành, cách giải quyết trên là thừa, vừa kéo dài thời gian xử lý hồ sơ cho chính bộ phận tiếp nhận, vừa khiến cho người phải nộp hồ sơ, giấy tờ thêm phiền hà, tốn thời gian đi lại. Căn cứ vào NĐ79 ra đời cách đây đã 5 năm thì việc "sính bản chính" chẳng những thừa mà còn sai. Đồng thời cũng làm cho một quy định của pháp luật dường như bị "vô hiệu hóa". Cụ thể, theo Điều 6, NĐ79 thì bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính "có giá trị pháp lý sử dụng thay cho bản chính trong các giao dịch". Cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao được cấp từ sổ gốc, bản sao được chứng thực từ bản chính "không được yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu, trừ trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ bản sao là giả mạo thì có quyền xác minh". Trường hợp nêu trên không phải là cá biệt. Bên cạnh đó, liên quan đến hoạt động chứng thực diễn ra tại các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài cũng còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Trong đó, nổi lên là việc hiện nay hiệp định lãnh sự mà Việt Nam thường ký không phân biệt công tác công chứng và chứng thực, mà thường đưa chung vào chức năng công chứng, cho dù pháp luật Việt Nam có sự tách bạch rõ giữa công chứng và chứng thực. Chính vì lẽ đó, đang có độ vênh giữa những quy định trong nước với các điều ước mà Việt Nam ký kết.

            Xét về mặt chuyên môn, rõ ràng việc "sính" cả bản chính và bản sao là lỗi của cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Tuy nhiên, tìm hiểu mới thấy, nguyên nhân một phần do đang có quá nhiều hướng dẫn. Hiện có tới 40 văn bản các loại có quy định liên quan đến chứng thực. Thế nhưng, chính sách liên quan trực tiếp tới hoạt động này chỉ mới dừng ở cấp độ nghị định. Trong khi đó, một số văn bản điều chỉnh lĩnh vực khác có liên quan đến chứng thực hầu hết đã được ban hành ở cấp độ luật như: Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Nhà ở… Vì vậy, sự tuân thủ của các cơ quan, tổ chức đối với các quy định của pháp luật về chứng thực không cao do bị chi phối bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Một vấn đề đáng lưu tâm nữa là đang có rất nhiều loại việc chứng thực khác nhau do chính quyền các cấp cũng như cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện. Nhưng việc chứng thực những loại việc này phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục nào, giá trị pháp lý của những hành vi chứng thực này ra sao thì chưa được khẳng định rõ ràng trong NĐ79. Chính vì vậy, đã xuất hiện tình trạng mỗi cơ quan chứng thực một cách đối với cùng một loại việc. Thực trạng trên cho thấy, việc "luật hóa" các quy định về chứng thực trên cơ sở khảo sát thực tế và rà soát hệ thống pháp luật hiện hành là rất cần thiết. Từ đây, mới có thể tạo cơ sở pháp lý cao cho việc giải quyết những vướng mắc trên. Tuy nhiên, đó là giải pháp về lâu dài, còn trước mắt để hoạt động chứng thực quy củ, tránh được vấn nạn "sính" bản chính, "chứng thực tràn lan" rất cần Bộ Tư pháp ban hành những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể tới địa phương. Đó là mong mỏi, kiến nghị của không ít người dân khi hay tin Bộ Tư pháp đang thanh, kiểm tra việc thực thi pháp luật về chứng thực.

            4. Báo Tuổi trẻ Online có bài 17 quan chức Bình Phước “móc túi” trả trên 25 tỉ đồng. Bài báo phản ánh: Ngày 14-4, nguồn tin từ Sở Tài chính tỉnh Bình Phước cho hay cơ quan này vừa có tờ trình trình UBND tỉnh danh sách các cán bộ liên quan phải khắc phục hậu quả do việc định giá (giảm giá), bán đấu giá 323ha cao su để làm đường Lộc Tấn-Bù Đốp sai qui định.

            Theo danh sách, có 17 quan chức từ chủ tịch UBND tỉnh đến cán bộ thuộc các sở, ban ngành liên quan phải tự bỏ tiền túi để khắc phục trên 25 tỉ đồng thất thoát do bán 323ha cao su sai qui định.

            Người đứng đầu danh sách phải bỏ tiền túi để khắc phục sai phạm là ông Trương Tấn Thiệu, nguyên chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước. Khi còn đương chức, ông Thiệu đã ký quyết định để bán thẳng không qua đấu giá 3 lô cao su mà mỗi lô chỉ có 1 người tham gia đấu giá. Sau đó, ông Thiệu tiếp tục ký quyết định phê duyệt giá khởi điểm (292 ha cao su).

            Kế đến là ông Nguyễn Văn Lợi, phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước. Ông Lợi có trách nhiệm khắc phục sai phạm do đã ký quyết định điều chỉnh giá khởi điểm 3 lô cao su không qua đấu giá và quyết định phê duyệt kết quả bán đấu giá 292 ha cao su cho khách hàng Lê Văn Sương.

            Bên cạnh đó các cán bộ liên quan gồm: ông Phạm Công, giám đốc Sở Tài chính, nguyên chánh Văn phòng UBND tỉnh; ông Phạm Thụy Luân, phó chánh Văn phòng UBND tỉnh và ông Trần Lê Thương, chuyên viên phòng Kinh tế UBND tỉnh.

            Ông Công, ông Luân và ông Thương đều đóng vai trò tham mưu và ký 3 quyết định tham mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh giá khởi điểm, bán thẳng không qua đấu giá 323ha cao su.

            Ngoài ra các cán bộ, lãnh đạo liên đới sai phạm phải bỏ tiền túi khắc phục hậu quả gồm:

            - Ông Nguyễn Hoàng Thái, nguyên giám đốc, hiện là chủ tịch UBND thị xã Phước Long;

            - Ông Nguyễn Tân Xuân, quyền giám đốc Sở Tài chính vào cuối năm 2010 đến giữa năm 2011, hiện là chủ tịch UBND thị xã Bình Long;

            - Ông Trương Văn Phẩm, nguyên phó giám đốc Sở Tài chính (đã bị bắt tạm giam ngày 22-2-2013);

            - Ông Nguyễn Xuân Hiệp, chuyên viên phòng giá – quản lý công sản Sở Tài chính;

            - Ông Trần Minh Luân, nguyên trưởng Phòng giá – Quản lý công sản Sở Tài chính (lúc bị bắt tạm giam ngày 22-2-2012 là giám đốc Quỹ phát triển đất tỉnh Bình Phước);

            - Ông Nguyễn Tuấn Cảnh, giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản kiêm phó giám đốc Sở Tư pháp (đã bị bắt tạm giam ngày 22-3-2013);

            - Ông Phan Ngọc Sự, nguyên phó giám đốc Sở Kế hoạch và đầu tư, hiện là phó giám đốc Sở Tài chính;

            - Ông Nguyễn Văn Tám, chủ tịch huyện Bù Đốp;

            - Ông Võ Hữu Phúc, phó Phòng tài chính Công ty TNHH MTV cao su Lộc Ninh;

            - Ông Mai Đình Lương, phó Phòng Nghiệp vụ - Chi cục Lâm nghiệp (Sở NN&PTNT);

            - Bà Hà Thị Thu Hiền, kế toán Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh, thư ký ghi biên bản các cuộc bán đấu giá;

            - Ông Nguyễn Khắc Điệp, chuyên viên Phòng giá đất giải tỏa bồi thường thuộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh, thành viên hội đồng.

            Tỉnh ủy Bình Phước cho biết vụ án bán đấu giá 323ha cao su thuộc vườn cao su tạo quỹ làm đường Lộc Tấn – Bù Đốp hiện vẫn đang được cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ.

            5. Báo Phụ nữ Online có bài Vô lý như cho mang thai hộ mà cấm đẻ thuê!. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến về việc có tiếp tục cấm mang thai hộ để sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên theo nhiều ý kiến đưa ra thì nên cho phép “mang thai hộ”, nhưng lại cấm “đẻ thuê”. 

            Trước sự việc này, ĐBQH Đỗ Văn Đương, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của QH cho rằng, đây là vấn đề nhạy cảm, tế nhị. Theo ĐB Đương, việc đẻ thuê hay mang thai hộ xuất phát từ thực tế có nhiều người phụ nữ không có khả năng mang thai, không thể sinh con được nhưng họ vẫn muốn có con nên mượn bụng của người khác có điều kiện mà được sự đồng ý, chấp thuận của người được nhờ vả. 

            Ông nhận định, đẻ thuê và mang thai hộ khác nhau ở chỗ, mang thai hộ có thể là đẻ giúp, không lấy tiền, còn đẻ thuê thì người đi thuê đẻ sẽ phải mất một khoản tiền cho người mang thai. Một cái về tình cảm, một cái về kinh tế.

            “Mang thai hộ và đẻ thuê là hai tên gọi khác nhau nhưng về bản chất lại giống nhau. Bản chất cũng là đẻ thuê hết, việc này nó phá vỡ các quan hệ truyền thống gia đình. Nhờ vả thường cũng có tiền bồi dưỡng. Khi mang thai người phụ nữ cũng phải giảm sức lao động, người đàn ông vì thế cũng phải có trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm bảo đảm sức khỏe cho người phụ nữ đó.

            Đây là một vấn đề nhạy cảm, tế nhị bởi chúng ta đang duy trì chế độ một vợ một chồng, nòng cốt của hạnh phúc gia đình chính là việc sinh con sinh cái. Trong thực tế cuộc sống cũng có người vợ không đẻ được lại cho chồng đi quan hệ với người khác để kiếm con nối dõi tông đường. Nếu không cẩn thận nhiều người lợi dụng cái này để quan hệ lung tung, dẫn đến vi phạm chế độ một vợ một chồng theo quy định của luật Hôn nhân & Gia đình, gây ra mất trật tự xã hội. 

            Cái này thuộc phạm trù vừa đạo đức, vừa là pháp luật. Vậy mà pháp luật lại đề ra một cái trong lúc các phạm trù đạo đức Á đông, đặc biệt là chúng ta còn đang rất nặng nề, có quan niệm sinh đẻ nó đã ảnh hưởng bởi những quan hệ xã hội khác nằm trong phạm trù trên thì phải cân nhắc.

            Tôi không đồng ý cho phép mang thai hộ. Pháp luật không cấm nhưng pháp luật cũng không nên tuyên bố rằng cần phải đưa ra quy định cho phép mang thai hộ như thế. 

            Ở một số nước cũng có hình thức đẻ thuê, đấy là một hình thức đầu nậu, chăn dắt kiếm tiền trên thân xác của người phụ nữ. Thậm chí có hẳn cả một công ty đẻ thuê, tập hợp nhiều loại đàn bà, phụ nữ mãi dâm xong rồi thực hiện cả chuyện đó nữa. Đó là chuyện có vi phạm về đạo đức, và cũng làm xáo trộn các quan hệ lành mạnh trong xã hội, đặc biệt là quan hệ hôn nhân và trật tự xã hội” - ĐB Đỗ Văn Đương phân tích.

            Đồng quan điểm cho rằng việc mang thai hộ và đẻ thuê chỉ là sự đánh tráo khái niệm, luật sư Nguyễn Văn Quang, Giám đốc công ty Luật Hợp danh lý giải:

            “Ví dụ người ta bảo không đẻ thuê, không được thuê mang thai hộ nhưng mang thai hộ vẫn có những khoản thù lao. Nghĩa là là tôi không bán hàng nhưng thù lao vẫn là như thế. Tôi cho rằng kể cả người thân, người nhà người ta mang thai hộ rất vất vả trong 9 tháng 10 ngày, họ xứng đáng được hưởng một khoản nào đó được gọi là bồi dưỡng, trả tiền công hay gọi là cái gì cũng được, vẫn là vật chất, vẫn là như nhau cả thôi.

            Mang thai hộ và đẻ thuê cùng một bản chất, chỉ có cách gọi tên là khác nhau thôi. Nếu cho phép mang thai hộ mà cấm đẻ thuê thì đó là sự vô lý, đó chính là sự bất cập của pháp luật. Tuy nhiên, tôi tán thành việc cho phép mang thai hộ. Chúng tôi là luật sư tham gia nhiều vụ án cũng chỉ vì người phụ nữ không đẻ được con, không bỏ được gia đình của mình mà cũng không nhờ được người mang thai hộ dẫn đến rất nhiều bi kịch.

            Chính vì thế mà việc mang thai hộ cũng nên được phép trong những điều kiện nhất định. Chỉ có điều, mình phải có những biện pháp quản lý làm sao tránh việc thương mại hóa việc mang thai hộ”. – Luật sư Quang nói.

            6. Báo Tuổi trẻ Online có bài Quy định thu tiền giữ xe vượt mức, Sơn La bị “tuýt còi”. Bài báo phản ánh: Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) vừa có thông báo gửi HĐND tỉnh Sơn La về việc tỉnh này ban hành nghị quyết số 18/2012 quy định một số khoản phí, lệ phí không phù hợp.

            Theo đó, nghị quyết số 18 của tỉnh Sơn La (ngày 19-9-2012) quy định về phí đò ngang (qua sông, hồ) với xe máy là 15.000 đồng/xe/lượt và hàng hóa trên 50kg là 10.000 đồng/đơn vị. Mức thu này cao gấp nhiều lần và trái với quy định của Bộ Tài chính (chỉ cho phép thu 5.000 đồng/người, xe hoặc đơn vị hàng hóa khi qua sông).

            Ngoài ra, nghị quyết số 18 còn quy định về việc thu tiền giữ xe cao gấp đôi, thậm chí gấp ba lần so với quy định của Bộ Tài chính. Cụ thể, Bộ Tài chính quy định giữ xe đạp không quá 1.000 đồng/lượt, xe máy không quá 2.000 đồng/lượt và xe tải không quá 10.000 đồng/lượt nhưng tỉnh Sơn La quy định cho phép thu vượt mức từ 2.000-60.000 đồng/xe.

            7. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Người tâm thần được kết hôn hay không tùy... “mắt“ cán bộ hộ tịch?. Bài báo phản ánh: Nhiều người sau khi kết hôn mới "ngã ngửa" là chồng mình... có vấn đề về thần kinh. Nhẹ thì chỉ là những biểu hiện bất thường trong sinh hoạt, nặng hơn là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, thậm chí khi phát bệnh là giết luôn cả vợ, con. Rơi vào hoàn cảnh ấy, nhiều người tự trách mình nếu biết trước đã chẳng dại gì "chui đầu vào thòng lọng".

            Hiện nay, theo Luật Hôn nhân gia đình, thì người mất năng lực hành vi dân sự thuộc trường hợp cấm kết hôn. Tuy nhiên, một người chỉ bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án tuyên người đó mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự.

            Do đó, trường hợp một người tuy mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác khác dẫn tới không nhận thức, điều khiển được hành vi nhưng do không (hoặc chưa) có quyết định của Tòa án thì vẫn được xác định là có năng lực hành vi dân sự và không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn.

            Thực tế cho thấy, nhiều vụ việc Tòa án thụ lý giải quyết theo yêu cầu cơ quan có thẩm quyền về hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm khoản 2 Điều 10 Luật HNGĐ nhưng bản thân đương sự, gia đình đương sự đã phản đối và UBND nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cũng đã không đồng tình với quyết định của Tòa án vì cho rằng, việc đăng ký kết hôn trong trường hợp này là đúng luật.

            Như vậy, vấn đề là ở chỗ nếu không có quyết định của Tòa án tuyên một người mất năng lực hành vi dân sự thì làm sao biết người đó có... "vấn đề" để mà cấm kết hôn?. Trong khi năng lực hành vi dân sự không phải là cái có thể nhìn thấy...

            Thực tế cũng cho thấy không có trường nào hợp cha, mẹ của người bị bệnh tâm thần lại yêu cầu Tòa án tuyên bố con mình bị mất năng lực hành vi dân sự để không được quyền kết hôn. Nhiều ý kiến cho rằng đây chính là điều bất cập của quy định hiện hành về cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự.  

            Thay vì quy định người mất năng lực hành vi dân sự không được kết hôn như quy định của Luật hiện hành, một phương án khác được đưa ra trong quá trình sửa đổi Luật HNGĐ theo hướng cụ thể hơn là cấm kết hôn đối với người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức được hành vi của mình.

            Bởi lẽ trong khi quy định cấm như luật hiện hành đang thiếu tính khả thi thì ngược lại, quy định nói trên sẽ dễ dàng thực hiện hơn. Cán bộ hộ tịch chỉ cần căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài nếu thấy có nghi ngờ người kết hôn là không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, sẽ yêu cầu người kết hôn phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe. Thực tế, quy định cấm kết hôn giữa những người đang mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức đã được duy trì trong Luật HN-GĐ năm 1986.

            Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nếu quy định cán bộ hộ tịch chỉ căn cứ vào biểu hiện bên ngoài của người đến đăng ký kết hôn thì rất có thể làm khó cho cán bộ hộ tịch bởi lẽ thời gian đến đăng ký kết hôn là rất ngắn, trong khi các biểu hiện về tâm thần thì không dễ phát hiện. Ngược lại, cán bộ hộ tịch có thể dùng chính quy định này để "khó dễ" cho người dân, trong khi luật lại chưa có cơ chế buộc xuất trình giấy khám sức khỏe trước khi kết hôn.

            Có ý kiến đề nghị để khắc phục bất cập nêu trên, Luật cần quy định việc kiểm tra sức khỏe và có giấy chứng nhận sức khỏe của cơ quan y tế có thẩm quyền trước khi kết hôn là điều kiện bắt buộc khi đăng ký kết hôn.

            Tuy nhiên, Bộ Tư pháp cho rằng "việc đòi hỏi giấy chứng nhận sức khỏe sẽ gây phiền hà, tốn kém cho người dân khi họ đi đăng ký kết hôn, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa mà việc đi lại đến cơ sở y tế có thẩm quyền rất khó khăn.

            Trong xu hướng cải cách thủ tục hành chính hiện nay, chúng ta lại càng không thể đặt ra yêu cầu về giấy chứng nhận sức khỏe". Vì thế, việc giao "trọng trách" nhận diện người tâm thần cho cán bộ tư pháp, chính quyền địa phương là hết sức nặng nề và phải có những quy định chặt chẽ mới có thể thực hiện được.



File đính kèm