Điểm tin báo chí sáng ngày 04 tháng 4 năm 2013

04/04/2013
Sáng ngày 04/4/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
            1. Báo Nhân dân điện tử có bài "Bàn chuyện miễn thi hành án gần 700 tỉ đồng". Bài báo phản ánh: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc miễn thi hành án khoảng 48.000 việc là khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành, đang được Bộ Tư pháp tổ chức lấy ý kiến. Tuy nội dung chính của dự thảo này chủ yếu là các đối tượng được xét miễn thi hành án, song vẫn còn nhiều ý kiến băn khoăn.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện cả nước còn hơn 288.000 việc (tương ứng số tiền khoảng 30.000 tỉ đồng) chưa được thi hành án dứt điểm. Trong đó có khoảng 48.000 việc (tương ứng số tiền gần 700 tỉ đồng) là khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành.

Đây là số việc mà các cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục, đã áp dụng những biện pháp cần thiết nhưng vẫn bế tắc. Do đó, theo Bộ Tư pháp, miễn thi hành đối với các khoản thu này là cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan thi hành án đầu tư thời gian và tập trung nguồn lực giải quyết những việc mới phát sinh hàng năm. Ước tính bình quân có khoảng trên 340 nghìn việc phải thi hành với số tiền phải thi hành trên 15.000 tỷ mỗi năm.

Tuy đa số các ý kiến đồng tình với việc miễn thi hành án các vụ không thể thi hành, vẫn có những ý kiến băn khoăn. Luật Thi hành án dân sự đã quy định miễn thi hành án cho một số trường hợp không có khả năng thi hành án, nếu ban hành thêm nghị quyết này, hóa ra Quốc hội ban hành hai văn bản khác nhau để điều chỉnh cùng một vấn đề, vậy là chưa ổn. Nên chăng chỉ ra nghị quyết để điều chỉnh một vấn đề cá biệt, chẳng hạn lập một danh sách những trường hợp không thể thi hành án để xin miễn.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng (Vụ trưởng Vụ Kiểm sát thi hành án VKSNDTC) kiến nghị: “Tại sao chúng ta không khoanh 48.000 việc này lại, cắt ra để theo dõi riêng? Nó sẽ không phát sinh thêm nữa và cũng không được ghi là án tồn vào năm sau. Làm như thế sẽ không cần phải tốn chi phí xác minh”.

Theo dự thảo, Nghị quyết xác định bốn trường hợp được miễn thi hành án bao gồm cả cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn đề xuất miễn thi hành án đối với án phí cùng các quyết định thu nộp ngân sách trong các bản án hình sự mà vi phạm của người bị kết án đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 quy định không còn là tội phạm.

Vấn đề đặt ra đối với việc thi hành án các đối tượng phải thi hành thường tìm mọi cách để “né”, do đó khi xét miễn cần được tính toán cẩn trọng để tránh phát sinh hậu quả và dễ cho quá trình áp dụng. Nếu đối tượng miễn tràn lan, không rõ ràng thì người dân sẽ không tin công việc mà cơ quan thi hành án làm.

Thí dụ một đương sự đang được xét miễn thi hành án, nhưng cũng chính người đó phát sinh thêm nghĩa vụ thi hành án ở một bản án khác thì có được miễn nữa hay không? Hay một người được miễn thi hành án, sau đó phạm tội thì có được tiếp tục miễn án phí… hay không? Nếu họ vắng mặt ở nơi cư trú mà vẫn có tài sản ở đó thì được miễn thi hành không?

Theo Phó Chánh án TANDTC Tống Anh Hào, một trong những đối tượng được xét miễn thi hành án là những người không có mặt ở nơi cư trú đã quá năm năm như vậy là không ổn. Phải quy định rõ hơn là họ không có tài sản, không có điều kiện thi hành án, nếu không miễn chẳng khác nào thừa nhận cho người trốn tránh thi hành án. Với trường hợp doanh nghiệp dừng hoạt động cũng nên áp dụng tương tự.

2. Báo Lao động có bài "Vụ dấu vân tay oan nghiệt: Chờ bồi thường đến bao giờ?". Bài báo phản ánh: Ngày 1-4, ông Trương Bá Nhàn (ngụ huyện Đồng Phú - Bình Phước, nhân vật trong bài viết Dấu vân tay oan nghiệt, đăng trên Báo Người Lao Động ngày 16-3-2010) cho biết vừa gửi đơn đến ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, nhờ can thiệp để được giải quyết bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Trước đó, Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường (Cục Bồi thường Nhà nước - Bộ Tư pháp) có văn bản trả lời ông Nhàn, cho biết trường hợp của ông được bồi thường oan.

Đã hơn 1 tháng kể từ ngày nhận được văn bản của Cục Bồi thường Nhà nước, ông Nhàn vẫn không nhận được bất kỳ văn bản nào của VKSND TPHCM về thụ lý đơn hay mời lên làm việc để thương lượng mức bồi thường (dù Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã quy định thủ tục, cách thức và thời hạn thực hiện rất cụ thể). Không thể chờ đợi trong sự im lặng một cách khó hiểu của cơ quan có trách nhiệm bồi thường, ông Nhàn đã đến liên hệ trực tiếp tại VKSND TPHCM  nhưng chỉ được trả lời “đang tiến hành kiểm tra, xác minh” mà không hẹn ngày giải quyết cụ thể.

3. Báo Người lao động có đăng bài "CMND 12 số: Không nên!" của TS Nguyễn Ngọc Kỷ. Bài báo phản ánh: Chọn giải pháp cấp lại CMND 12 chữ số hoàn toàn mới đồng nghĩa với việc “bức tử” hệ thống tàng thư vân tay hiện nay của hơn 70 triệu công dân!

Những chuyên gia căn cước của các nước đều muốn xây dựng cho nước mình một hệ căn cước hoàn chỉnh và phổ biến cho các ngành thống nhất sử dụng. Việc bỗng dưng các “chuyên gia” căn cước nước ta cho đổi số, phủ định kết quả do chính Bộ Công an đã công phu làm ra là điều tối kỵ.

Tại một hội nghị thẩm định, tôi đã phản đối việc này. Tôi muốn nhấn mạnh chủ trương cấp lại số định danh 12 chữ số cho toàn dân mà không kế thừa hệ CMND 9 chữ số cũ đã làm là sai lầm nghiêm trọng nhất. Chính chủ trương này sẽ “bức tử” 63 tàng thư CMND tại 63 địa phương theo nghĩa dừng cung cấp thông tin chỉ bản đầu vào cho các hệ tàng thư đó. Thực tế, tàng thư CMND của Hà Nội vừa qua không được bổ sung chỉ bản của công dân vừa cấp CMND mới tại các quận thử nghiệm. Cách lập chỉ bản vân tay mới bằng phương pháp “ấn” đồng thời cũng hoàn toàn không tương thích với phương pháp “lăn” tay cũ nên khi cần thì không thể dùng vân tay “ấn” để tra cứu trên tàng thư vân tay “lăn” được.

Chính chủ trương đổi số này đang đưa nước ta vào thời kỳ “loạn” căn cước (một công dân có thể có đồng thời nhiều số căn cước khác nhau, nửa cũ, nửa mới) kéo dài cả trăm năm, vi phạm nguyên tắc mỗi người chỉ có một số riêng. Hậu quả là rồi đây, nếu không dừng lại, các ngành và nhân dân sẽ luôn phải vất vả giải quyết trong thời gian dài việc kết nối số cũ với số mới.

Trên thực tế, khi kiểm tra danh tính công dân, các ngành sẽ phải làm việc với 9 số cũ và 12 số mới, tức là đủ 21 chữ số! Ai thắc mắc điều này hãy hình dung về thời kỳ quá độ chuyển từ hệ CMND cũ sang hệ CMND mới sẽ kéo dài bao lâu. Sau đó, hãy làm phép tính thống kê thiệt hại về nghiệp vụ và kinh tế khi phải khắc phục hậu quả do việc cấp mới số CMND 12 chữ số gây ra thì sẽ rõ.

Để khắc phục tình trạng trên, tôi đề xuất xem xét thực hiện theo trình tự các bước như sau:

Một, cho sửa lỗi cấp số CMND khác khi chuyển hộ khẩu từ tỉnh này sang tỉnh khác và lỗi cho phép dùng số hộ chiếu thay thế số CMND.

Hai, ngừng thử nghiệm cấp CMND mới 12 chữ số.

Ba, tiếp tục hoàn thiện và dùng hệ CMND hiện hành 9 chữ số. Thống nhất với Bộ Tư pháp phổ biến cơ chế cấp số CMND 9 chữ số để cấp trước cho trẻ em khi khai sinh và đăng ký hộ khẩu. Bộ Công an sẽ dùng số này để cấp CMND khi trẻ em đó lên 14 tuổi.

Bốn, tập trung điện tử hóa 63 tàng thư vân tay CMND tại 63 địa phương, điện tử hóa hệ hộ khẩu và hệ hộ tịch để kết nối 3 hệ với nhau hình thành hệ dân cư gốc chỉ quản lý căn cước, quá trình cư trú và trạng thái hộ tịch.

Năm, tiến hành cấp phát CMND mới, hình thức mới, có phần đọc máy (chip/mã vạch) đồng thời trên cả nước thông qua dịch vụ trực tuyến khai thác hệ dân cư trên mạng (nhờ xác minh nhanh nên thời gian quá độ này sẽ được rút ngắn chỉ còn trong vòng 1 năm).

Sáu, trên cơ sở hệ dân cư gốc, các ngành xúc tiến xây dựng cơ sở dữ liệu của mình với cơ chế bảo mật chuyên ngành, miễn là khi đụng chạm đến công dân thì phải thống nhất sử dụng số CMND do hệ dân cư cấp.

4. Báo Người đưa tin có bài "Rắc rối chữ 'hộ' trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất". Bài báo phản ánh: Chữ “hộ” trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) có từ thời bao cấp nhưng vẫn tồn tại, đã gây khó khăn cho người dân và cả cơ quan tố tụng. Vì vậy, khi sửa Luật Đất đai, cơ quan soạn thảo nên xem xét có giữ chữ “hộ” trong Luật hay không?

Thời bao cấp ruộng đất được giao theo bình quân nhân khẩu. Cụ thể là trong sổ hộ khẩu gia đình (hộ khẩu thường trú) có bao nhiêu “người từ 15 tuổi trở lên” (trang 373 Từ điển Luật học) thì được giao bao nhiêu đất căn cứ vào quỹ đất của địa phương. Nếu “chủ điền” có dư đất thì chia cho người thiếu đất theo chủ trương “nhường cơm xẻ áo”. Từ đó, người có hộ khẩu thường được hiểu là thành viên của hộ gia đình. Trong khi đó, những vấn đề liên quan đến hộ khẩu được quy định bởi Điều 25 Luật Cư trú.

Hiện, các giao dịch dân sự mà chủ tài sản là hộ gia đình chiếm tỷ lệ lớn, trong khi đó, các văn bản pháp luật quy định về hộ gia đình chưa rõ ràng nên việc áp dụng pháp luật gặp không ít khó khăn. Điều 43 Khoản 3 Mục b của Nghị định 181 ngày 29-10-2004 về thi hành Luật Đất đai chỉ quy định: “Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình thì giấy chứng nhận chỉ ghi tên chủ hộ”.

Và, theo quy định tại các  Điều 106, Điều 108 và Điều 109 Bộ Luật Dân sự 2005, hộ gia đình gồm các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định. Hộ gia đình là chủ thể tham gia giao dịch dân sự; Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập...; “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý”.

Tuy nhiên, việc dựa vào giấy tờ nào, hay xác định các thành viên hộ gia đình dựa vào tiêu chí nào thì pháp luật lại chưa quy định rõ. Hộ gia đình là chủ thể tham gia giao dịch dân sự nêu tại Điều 106 ở trên không thể đồng nghĩa hoàn toàn với hộ gia đình ghi trong sổ hộ khẩu gia đình, bởi vì sổ hộ khẩu gia đình chỉ sử dụng cho mục đích đăng ký để quản lý nhân khẩu thường trú của hộ gia đình. Vả lại, việc đăng ký hộ khẩu thường trú thường xuyên có biến động do cắt đi, tách hộ, nhập hộ, thậm chí không ít trường hợp nhập nhờ hộ khẩu.

Điều đáng quan tâm là mặc dù khái niệm hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự đã rõ, nhưng Khoản 2 Điều 146 Nghị định 181 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai lại quy định “... khi thế chấp phải được các thành viên trong hộ ký hoặc uỷ quyền theo luật định”. Thực hiện quy định này không khó với đất ở nông thôn, nhưng đất ở đô thị thì không thể giải quyết được. Bởi, nhiều trường hợp con cái chưa sinh ra đã có nhà có đất; lớn lên đi học, công tác ở xa nên “khổ chủ” rất tốn kém vì chữ “hộ”. Chưa kể thế nào là hộ gia đình? Xác định thành viên hộ là những ai? Thời điểm để coi là thành viên trong hộ quan hệ với tài sản của hộ như thế nào? Căn cứ vào sổ hộ khẩu để xác định thành viên?... Nhiều trường hợp khi con cháu, họ hàng... nhập khẩu nhờ vào gia đình để đi học, đi làm… khi có giao dịch hợp đồng lại phát sinh nhiều sự kiện pháp lý ngoài mong muốn của chủ hộ.

Sự lẫn lộn này đã gây không ít những tranh chấp không đáng có trong nhân dân, không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Trường hợp ông Nguyễn Thành Đ ở xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh-TP.HCM  là một ví dụ: khi ông Đ phải chia cho người chị ruột là bà T gần ½ phần diện tích đất tranh chấp vì hai người có tên trong sổ hộ khẩu thường trú. Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 20/2006/DS.GĐT ngày 02-8-2006 Hội đồng Thẩm phán TANDTC, kết luận: “trong vụ án này là tranh chấp về QSDĐ nông nghiệp giữa các thành viên hộ gia đình; diện tích 3.569m2 được cấp cho hộ gia đình đứng tên ông Nguyễn Thành Đ gồm 2 người là bà T và ông Đ (có nhà riêng, có GCN QSDĐ riêng) nên buộc ông Đ giao cho bà T 1.500m2 đất (gần ½ diện tích 3.569m2)” trích trong GCNQSDĐ đứng tên ông Đ. Chính vì sự chưa hợp lý này mà đến nay, bản án thi hành không được. Ông Đ còn sống nên không thể áp dụng Khoản 5 Điều 113 Luật Đất đai.

Từ những vướng mắc, bất hợp lý nêu trên, câu hỏi đặt ra là khi nào GCN QSDĐ cấp cho hộ, khi nào cấp cho cá nhân?

Tại trang 13 Báo Pháp Luật TP.HCM ra ngày 27-10-2003, Trưởng phòng đăng ký đất Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Nguyễn Văn Hồng cho biết, GCNQSDĐ cấp cho cá nhân nếu là đất mua, do thừa kế, do tặng cho; cấp cho hộ là đất do Nhà nước giao, Nhà nước khoán…

Thực tế không phải như vậy, vì đất của ông Đ, của bà M là do mua, do thừa kế. Trong khi, tại công văn của của hành chính TANDTC ngày 20.12.2007 v/v giải quyết vụ án hành chính năm 2007 có viết: “…GCNQSDĐ cấp cho ông Nguyễn Văn A tuy mang tên người cha nhưng thực chất là cấp cho hộ gia đình (gồm có người cha và một người con) chứ không phải cấp cho cá nhân người cha…”.

Để giải quyết các vụ rắc rối nêu trên, Phòng Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho UBND huyện Cần Giuộc, Long An một mẫu đơn có tiêu đề : “Đơn xin xoá chữ hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” vì “tôi hiện đang là cá nhân chủ sử dụng GCNQSDĐ số……Phần dưới phải có chữ ký đồng ý của các thành viên trong sổ hộ khẩu gia đình (bìa xanh) được đổi thành sổ hộ khẩu (bìa đỏ) theo QĐ số 698/2007/QĐ-BCA (C11) ngày 01-7-2007 của Bộ Công an để tránh sự hiểu lầm vì có khi chủ hộ (khẩu) không phải là chủ nhà. Vấn đề được giải quyết, nhưng ông Nguyễn Thành Đ không xoá được chữ hộ vì chị Nguyễn Thị T không chịu ký tên.

Từ căn cứ pháp lý cũng như những khó khăn trong việc áp dụng luật cho thấy, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, cơ quan soạn thảo Luật Đất đai sửa đổi nên xem xét có nên giữ chữ “hộ” trong GCNQSDĐ hay không?

5. Báo Pháp luật Việt Nam có đăng bài "Công chứng và đăng ký là hai việc độc lập!" của tác giả Nguyễn Trí Hòa - Phó chủ tịch phụ trách chuyên môn Hội Công chứng TP.HCM. Bài báo nêu: Tại Hội nghị tổ chức lấy ý kiến Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 14/03/2013, bà Đỗ Hoàng Yến, Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp có phát biểu:“Đề nghị Ban soạn thảo có đánh giá tác động cụ thể đối với quy định hiện hành bắt buộc các giao dịch về quyền sử dụng đất (QSDĐ) phải công chứng xem quy định này có những ưu, nhược điểm gì rồi mới bàn đến việc bỏ hay không bỏ quy định bắt buộc công chứng các giao dịch đất đai”. Chúng tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến này.

Qua thực tiễn công tác hàng ngày, chúng tôi nhận thấy, việc bắt buộc công chứng các hợp đồng giao dịch đất đai (HĐGDĐĐ) có nhiều ưu điểm như: Bảo đảm và tăng cường tính công khai, minh bạch; Phân biệt rạch ròi giữa quan hệ hành chính và quan hệ dân sự, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin cho”; Góp phần bảo đảm nguyên tắc, quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) và các quy định pháp luật liên quan; Góp phần ngăn chặn, hạn chế tình trạng lừa đảo trong HĐGDĐĐ; Góp phần giảm thiểu tranh chấp, tạo an toàn pháp lý và sự ổn định trong các HĐGD; Tạo sự tin cậy và nâng cao giá trị chứng minh của chứng cứ; Tạo sự ổn định và đồng bộ trong hệ thống pháp luật..... Ở đây, chỉ xin đi vào một số ưu điểm cụ thể của việc công chứng các HĐGDĐĐ.

Thứ nhất, góp phần ngăn chặn, hạn chế tình trạng lừa đảo: Khoảng 3 năm trở lại đây, cùng với suy thóai kinh tế, giao dịch nhà đất có chiều hướng giảm, nhưng tình trạng lừa đảo trong các giao dịch về đất đai có chiều hướng tăng. Hầu hết các tổ chức công chứng đều gặp “vấn nạn lừa đảo”. Thực tế, đã có một số trường hợp lừa đảo “lọt cửa” công chứng, gây ra những bất ổn tranh chấp kéo dài, hệ lụy khó lường và cho đến nay chưa giải quyết xong. Trước thực trạng này, có ý kiến đề nghị giao dịch đất đai, nếu đã có “sổ đỏ” chỉ cần tới thẳng cơ quan đăng ký là xong, nhằm xóa bỏ tệ nạn này.

Chúng tôi cho rằng, ý kiến trên chỉ đúng một phần. Những trường hợp lừa đảo “lọt cửa” công chứng chỉ chiếm tỷ lệ rất ít so với số lượng hồ sơ vụ việc lừa đảo mà công chứng đã phát hiện, ngăn chặn. Mặt khác, trong lĩnh vực đất đai, lừa đảo rất đa dạng, nhưng tập trung ở 02 nội dung: lừa đảo về giấy tờ nhà đất và lừa đảo về chủ thể tham gia hợp đồng và phần lớn nằm trong quan hệ giao dịch vay, mượn (“tín dụng đen” ngoài xã hội), “cò” cầm giấy tờ nhà đất. Nay nếu bỏ công chứng, thì chắc chắn tệ nạn lừa đảo sẽ có thêm cơ hội, điều kiện phát triển.

Lý do, qua công chứng, công chứng viên (với tư cách là chuyên gia pháp lý, được bồi dưỡng, đào tạo căn bản trong lĩnh vực liên quan), trước khi ký, bắt buộc trực tiếp phải tiếp xúc với các bên giao dịch, phải hỏi han, tư vấn, giải thích để xác định tư cách, năng lực chủ thể, ý nguyện các bên, phải kiểm tra giấy tờ tùy thân, kiểm tra nhận dạng nhân thân, đối chiếu vân tay… nên đã hạn chế được rất nhiều việc giả mạo chủ thể tham gia giao dịch.

Thứ hai, góp phần giảm thiểu tranh chấp, tạo an toàn pháp lý: Giao dịch đất đai là giao dịch rất phức tạp, liên quan đến giá trị tài sản lớn. Nhiều người (trừ những người am tường về pháp luật) không biết phải bắt đầu từ đâu, phải có những điều kiện, thủ tục, giấy tờ gì, đến cơ quan nào…. Thời gian qua, thị trường đất đai, là nơi “màu mỡ” đã “góp phần làm giàu” cho rất nhiều người, nhưng cũng có một số người “điêu đứng, khánh kiệt” vì “ dính” đến đất đai.

Thị trường này, thời gian qua, đã thu hút rất nhiều đối tượng, thành phần, tầng lớp trong xã hội tham gia, nhất là những giai đoạn “sốt” đất. Bởi lợi nhuận quá cao, nên có nhiều trường hợp bất chấp pháp luật, tình cảm, luân thường đạo lý… để lừa, “gài” các nội dung có tính chất bất lợi cho phía đối tác trong các HĐGDĐĐ.

Vì vậy HĐGDĐĐ qua công chứng đã gần như thói quen, nề nếp, vì nếu được công chứng, các công chứng viên bằng sự tinh thông nghề nghiệp, kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề, với sự tuân thủ trình tự, thủ tục quy định của Luật Công chứng và các quy định liên quan, sẽ khách quan trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên, sẽ tư vấn, hướng dẫn, tạo điều kiện để các bên giao kết HĐGD đúng với ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận của họ, nhưng bảo đảm về hình thức, chặt chẽ rõ ràng về nội dung… qua đó góp phần đáng kể trong việc giảm thiểu rủi ro, tranh chấp, khiếu kiện, tăng cường an tòan pháp lý cho các HĐGD, góp phần ổn định phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ ba, tạo sự tin cậy và nâng cao giá trị chứng minh của chứng cứ: Có thể nói giao dịch nhà đất là một trong những “nguồn căn bản”, “đầu vào chủ yếu” của các vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Trong quá trình giải quyết, để có một quyết định khách quan phù hợp, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, đánh giá dựa trên nhiều nguồn chứng cứ khác nhau. Nhưng trong số đó, các HĐGD có công chứng hợp pháp là một trong những chứng cứ không thể phản bác (“ Những tình tiết sự kiện… đã được ghi trong văn bản và đã được công chứng …hợp pháp…không phải chứng minh”- Điều 80 BLTTDS ).

Cũng phải nói thêm rằng, công chứng và đăng ký là hai việc độc lập, hòan tòan khác nhau. Bản chất của việc đăng ký là thủ tục hành chính để ghi nhận những thay đổi, biến động phục vụ cho công tác quản lý, mục đích nhằm thiết lập hồ sơ địa chính, xác lập mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước với người sử dụng, người sở hữu bất động sản. Còn công chứng, không phải là thủ tục hành chính mà là họat động của cơ quan bổ trợ tư pháp, bản chất là chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch.

Các công chứng viên được xem như là  những chuyên gia trong các HĐGD, là “các bác sỹ phòng bệnh”, “thẩm phán phòng ngừa”. Bởi vậy, cần có sự cân nhắc thận trọng khi quyết định bỏ hay giữ công chứng các HĐGDĐĐ.



File đính kèm