I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo Thời báo kinh tế Sài Gòn Online có bài Lo ngại dự thảo Hiến pháp “phớt lờ” vai trò doanh nhân. Bài báo phản ánh: Đại diện giới học giả, luật sư và doanh nghiệp lo ngại vai trò của khu vực kinh tế tư nhân bị phớt lờ trong dự thảo hiến pháp tại hội thảo “Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đóng góp xây dựng Hiến pháp” do VCCI tổ chức sáng 19-3.
Bà Phạm Chi Lan nói: “Tôi đọc trong bản dự thảo hiến pháp thì thấy có tới 122 từ nhà nước, mà toàn là chủ ngữ. Như vậy là quá nhiều trong bản hiến pháp của nhân dân”.
Trong khi đó, từ “doanh nhân” không được nhắc tới bất kỳ một lần nào trong dự thảo, theo Giám đốc Công ty Economica Lê Duy Bình.
Ông Bình trích Điều 2 của Dự thảo : ““tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” và cho rằng, việc thiếu từ “doanh nhân” tạo cảm giác cộng đồng doanh nhân vẫn bị phân biệt đối xử.
Ông nói: “Cộng đồng doanh nhân không khỏi chạnh lòng khi không thấy tên mình trong nền tảng của quyền lực nhà nước và của nhân dân”.
Luật gia Vũ Xuân Tiền - Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty tư vấn VFAM Việt Nam bổ sung thêm, dù có tới 124 Điều mà dự thảo không có cụm từ "doanh nhân" là “điều đáng tiếc”.
Ông nói: “Điều đó có nghĩa là, một "lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã bị ban soạn thảo dự thảo Hiến pháp bỏ quên”.
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc đòi hỏi thêm: “Dự thảo đã nói đến giai cấp công nhân, trí thức, thì phải nói đến doanh nhân”. Ông Lộc, tuy vậy, đề xuất rằng Điều 2 này chỉ cần rút gọn lại là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” là đủ.
Bà Lan đề nghị, cần bỏ cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” ra khỏi mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong dự thảo.
Bà Lan nói, trên thế giới chỉ có kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường xã hội, và đặt câu hỏi: “Thế nào là nền kinh tế thị trường theo xã hội chủ nghĩa? Hiến pháp là một bản quy định pháp luật của toàn dân mà đưa ra khái niệm đông đảo người dân chưa biết tới thì rất khó.
Vì vậy, bà khẳng định, dự thảo chỉ nêu nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường là đủ.
Đề nghị của bà Chi Lan được Giáo sư Nguyễn Mại chia sẻ. Ông nhận xét, Chương 3 của dự thảo vẫn quy định là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn phân biệt các thành phần kinh tế theo quan điểm giai cấp trước đây, và vẫn nhấn mạnh vai trò nhà nước quản lý.
“Như vậy, tinh thần này chưa dựa trên tư duy phát triển mới để giải quyết những trở lực lớn trên con đường chấn hưng đất nước”.
Cũng như bà Chi Lan, ông Mại kiến nghị chỉ cần nêu nền kinh tế của Việt Nam là nền kinh tế thị trường, tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh, ý tưởng và sáng kiến của người dân và doanh nghiệp là đủ.
Về thu hồi đất đã giao cho người dân, dự thảo mở rộng năm trường hợp mà Nhà nước tự quyết định thu hồi đất đó là: (i) quốc phòng, (ii) an ninh, (iii) lợi ích quốc gia, (v) lợi ích công cộng, và (vi) dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Ông Nguyễn Tiến Lập – Văn phòng Luật sư Quang và cộng sự nói: “Căn cứ vào năm lý do này, ai cũng có thể kết luận được là nhà nước muốn thu hồi lúc nào cũng được bởi không có lý do này thì sẽ có lý do kia”.
Ông giải thích, điều này mâu thuẫn với Điều 56 trong đó khẳng định tài sản hợp pháp của tổ chức, công dân không bị quốc hữu hóa và chỉ bị trưng mua hoặc trưng thu trong một số trường hợp đặc biệt theo luật định. Quyền sử dụng đất chính là tài sản. Hơn nữa, tài sản của mọi tổ chức và cá nhân luôn hiện hữu trên đất bởi không có cái gì mà không tồn tại trên đất cả.
Ông Lập nói: “Có nghĩa rằng, một khi thu hồi đất là nhà nước sẽ tước đoạt hoặc phá hủy mọi tài sản hợp pháp của người dân".
Trong khi đó, luật gia Vũ Xuân Tiền tỏ ra thẳng thắn hơn khi đề nghị xoá bỏ hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, thay vào đó là quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu của công dân và sở hữu của pháp nhân.
Ông Tiền nói, dự thảo cần thừa nhận đa sở hữu về đất đai vì những lý do sau cơ bản: Việt Nam đã thừa nhận nền kinh tế đa sở hữu, trong đó chủ doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền sở hữu tư liệu sản xuất, và được nhà nước cam kết bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Hơn nữa, các doanh nghiệp nhà nước đang được cổ phần hóa, tức đa dạng hóa sở hữu.
Ông đặt câu hỏi: “Vậy, với nông dân, tại sao không thể mạnh dạn áp dụng một sự ứng xử tương tự – tức là công nhận người dân có quyền sở hữu đất đai – là tư liệu sản xuất chính của họ”.
Ông nói: “Làm khác đi là tước bỏ của người nông dân cái quyền họ mơ ước bao giờ nay. Làm khác đi, có nghĩa chỉ áp dụng “định hướng xã hội chủ nghĩa” với nông dân”.
Ông Tiền nói, ngày xưa nhà nước chỉ cần cho nông dân thu lợi trên 5% mảnh đất mà người nông dân đã có thể xoay xở vượt qua những năm tháng khó khăn của thời bao cấp; nay được sở hữu 100% thì người nông dân sẽ làm ra điều thần kỳ mới. Hơn nữa, hiện tượng đau lòng khi những người dân bị tước mất đất, phải vác đơn đi khiếu kiện khắp nơi sẽ không còn nữa.
Trong khi đó, nguyên thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Hùng Võ khẳng định, điều 57, 58 quy định về quyền thu hồi đất đai của nhà nước là chưa đúng với chuẩn mực quốc tế .
Ông nói: “Chúng ta đang mong muốn được thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường thì đầu tiên cần có một chuẩn mực quốc tế về quyền thu hồi đất”.
2. Trang Songmoi.vn có bài Mỗi công dân lại chịu thêm một mã số định danh. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến về việc cấp mã số định danh cá nhân tạo điều kiện cho việc quản lý dân cư. Theo đó, số định danh cá nhân bao gồm 12 chữ số, xác lập từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và được cấp và được ghi trên giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân, gắn bó với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Đây là cơ sở để truy nguyên chính xác về công dân trong dữ liệu quốc gia, làm cơ sở để liên kết, thống nhất các thông tin cá nhân trong các cơ sở dữ liệu ngành, lĩnh vực.
UBND xã sẽ cấp mã số định danh cho các công dân mới sinh đồng thời cùng việc đăng ký giấy khai sinh khi Luật Hộ tịch có hiệu lực. Đối với công dân đã đăng ký khai sinh trước khi Luật Hộ tịch có hiệu lực, từ năm 2013 đến 2020, công an tỉnh, huyện sẽ tiến hành cấp mã số định danh khi công dân đăng ký thường trú hoặc cấp mới, đổi hoặc thay thế chứng minh nhân dân.
Theo Bộ Tư pháp, trong cuộc đời mỗi công dân có thể sở hữu khoảng 20 loại giấy tờ (giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, hộ khẩu,…), mỗi loại giấy tờ lại gắn với một con số nhất định. Hơn nữa, theo tính toán, số lượng giao dịch hành chính công giữa có quan hành chính sự nghiệp với công dân trung bình hàng năm khoảng 600 nghìn/ngày. Ngoài ra, theo ước tính của Bộ Tư pháp, việc cung cấp số định danh cá nhân sẽ giúp tiết kiệm thời gian cho công dân và khoảng 460 tỷ đồng/năm chi phí hành chính.
Tuy nhiên, việc cấp mã số định danh trong khi trên chứng minh thư đã có một mã số riêng và được khai khi đăng ký tất cả các loại giấy tờ sẽ làm cho vấn đề quản lý thêm phức tạp. Chưa kể người dân còn bị quản lý bởi những con số khác như mã số thuế, số hộ khẩu... Cấp thêm một loại số không mang nhiều ý nghĩa và sẽ lặp lại tình trạng một người bị ràng buộc bởi hàng chục loại giấy tờ chứng minh nhân thân như hiện nay.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gặp khó khi làm khai sinh quá hạn. Bài báo phản ánh: Thay vì tự xác minh, UBND phường đã từ chối giải quyết, viện lẽ không có giấy tờ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con.
Cần có khai sinh để giải quyết công việc liên quan, ông Nguyễn Đình Trang (phường Đông Hưng Thuận, quận 12, TP.HCM) đang gặp khó vì bị UBND phường này từ chối giải quyết đăng ký khai sinh quá hạn.
Ngày 11-1-2013, ông Trang nộp hồ sơ đăng ký khai sinh tại UBND phường. Hồ sơ gồm có: tờ khai đăng ký khai sinh; giấy tường trình và cam kết về việc chưa từng đăng ký khai sinh; CMND và hộ khẩu của ông và mẹ ông; giấy chứng tử của ba ông. Ngoài ra, ông còn nộp cho UBND phường giấy chứng nhận hộ khẩu thường trú mà gia đình ông được UBND quận Tân Bình cấp năm 1982. Trong giấy này, mẹ ông làm chủ hộ và trong cột quan hệ với chủ hộ ông được ghi là con, ba ông là chồng.
Sau khi nhận hồ sơ, UBND phường giải thích đây là trường hợp đăng ký khai sinh quá hạn và yêu cầu ông liên hệ với UBND phường nơi ông sinh ra và có hộ khẩu thường trú trước khi chuyển đến phường này xác nhận ông chưa được đăng ký khai sinh ở đây. Ông đã nộp được giấy xác nhận này nhưng lại không xuất trình được giấy tờ chứng minh mối quan hệ cha, con. Thế là UBND phường không giải quyết, đồng thời hướng dẫn ông liên hệ TAND quận 12 để yêu cầu tòa cho nhận cha.
Cha ông T. mất năm 1950 và mẹ ông mất năm 2011 (có giấy báo tử). Ông được cấp CMND, hộ khẩu thường trú nhưng chưa được cấp giấy khai sinh. Ngày 26-3-2011, khi ông nộp hồ sơ đăng ký khai sinh quá hạn thì UBND xã Bình Chánh từ chối giải quyết. Ban đầu, UBND xã yêu cầu ông chứng minh mối quan hệ cha, mẹ, con. ông đã được Phòng Nghiệp vụ cảnh sát Công an TP.HCM xác định mối quan hệ trên nhưng phần mẹ ông chỉ ghi tên mà không có năm sinh, số CMND, địa chỉ nên UBND xã đề nghị ông bổ sung. Ông T. tìm đến Công an huyện Bình Chánh xin trích lục bản khai nhân khẩu của mẹ ông năm 1976. Công an huyện đã xác nhận việc mẹ ông T. khai ông T. là con ruột và cung cấp nội dung về mẹ ông T. theo yêu cầu của UBND xã.
Tưởng vậy là được giải quyết nhưng UBND xã vẫn từ chối, viện lẽ ông T. không đủ điều kiện để nhận mẹ của mình mà phải kiện ra tòa án xem xét. UBND xã cho rằng: Nếu ông T. nhận mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp giữa những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc này thì yêu cầu nhận mẹ của ông mới được giải quyết. Trong khi đó, mẹ ông T. có người con riêng mà người này thì không có ý kiến phản đối hay chấp thuận yêu cầu của ông T. Sau cùng, UBND xã trả lại hồ sơ đăng ký khai sinh của ông T.
Nếu ông Trang đang chờ UBND phường xem xét lại vụ việc thì ông T. đã gửi đơn yêu cầu Phòng Tư pháp huyện, Sở Tư pháp TP.HCM can thiệp.
Ngày 2-10-2012, Sở Tư pháp TP.HCM có công văn cho biết: Đối với những trường hợp đăng ký khai sinh quá hạn cho người đã thành niên mà một bên hoặc cả hai bên cha, mẹ đã chết, UBND cấp xã cần căn cứ vào những giấy tờ cá nhân có ghi về quan hệ cha, mẹ, con do đương sự xuất trình để ghi. Trường hợp không có giấy tờ ghi về quan hệ cha, mẹ, con thì cơ quan đăng ký hộ tịch phải xác minh làm rõ trước khi đăng ký.
Sau khi nhận được công văn này, ông T. đã đến UBND xã Bình Chánh nộp lại hồ sơ nhưng xã này vẫn không giải quyết.
4. Trang Giadinh.net.vn có bài Dự luật mới "trừng phạt" hôn nhân đồng giới?. Bài báo phản ánh: Ngày 19/3/2013, Trung tâm ICS – Tổ chức bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam đã có ý kiến về Dự thảo xử phạt "tội ngoại tình" của Bộ Tư Pháp. Tổ chức này cho rằng, việc tăng gấp đôi mức phạt không phải là dấu hiệu cho thấy luật pháp đang “trừng phạt” hôn nhân cùng giới nặng lên như cách hiểu của không ít người hiện nay.
Sau khi Bộ tư pháp đưa ra Dự thảo nghị định mới nâng mức phạt “tội ngoại tình” từ 500.000 đồng lên 1.000.000 đồng đã gây ra nhiều tranh cãi trong dư luận. Ngày 19/3/2013, Trung tâm ICS – Tổ chức bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam cũng đã có ý kiến về vấn đề này.
Theo ICS, Dự thảo nghị định xử phạt tư pháp sẽ thay thế một số Nghị định, trong đó có Nghị định hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2001 (Nghị định 87/2001-NĐCP) hiện hành. Điều 46 về “Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng” đã có trước nay, là Điều 8 trong Nghị định 87/2001/NĐ-CP hiện hành.
Về cơ bản điều luật này không thêm nội dung mới, chỉ tăng gấp đôi mức phạt lên từ 100.000 – 500.000 giờ lên 200.000 – 1.000.000. Nhưng có điểm mới ở Dự thảo là có thêm hình thức phạt cảnh cáo (Nghị định 87 hiện hành chỉ có phạt tiền).
Nghị định 87/2001/NĐ-CP đã ra đời 12 năm trước với giá trị đồng tiền khác bây giờ, nên việc tăng gấp đôi mức phạt không phải là dấu hiệu cho thấy luật pháp đang “trừng phạt” hôn nhân cùng giới nặng lên, vì nó cũng áp dụng tương tự với nhiều trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn khác.
Vấn đề ở đây là khoản e về “Kết hôn với người cùng giới” vẫn là điều khoản gây tranh cãi lâu nay, theo chúng tôi về nguyên tắc là rất khó để áp dụng. Đây là một dạng chế tài không thể áp dụng được trong thực tế, vì người cùng giới rất khó để “lừa” chính quyền mà đăng ký kết hôn được. Nó khác với 5 khoản ở trên (đa hôn, cận huyết…) ở chỗ những khoản trên người ta có thể gian dối hoặc vô tình mà kết hôn với nhau được, còn hai người cùng giới chắc phải cải trang và làm giả giấy tờ thì mới đăng ký kết hôn được. (?)
Nếu hai người đồng tính dắt nhau đi đăng ký kết hôn, vì cũng chỉ có từ chối chứ cũng không thể phạt họ. Nếu họ đăng ký được, thì cũng chưa biết người bị phạt lúc này là họ hay là cơ quan đã cấp giấy chứng nhận cho họ. (?)
Còn tất cả những hành vi khác như tổ chức đám cưới, lễ tiệc của cặp đôi đồng tính, pháp luật đã quy định rõ là không có giá trị pháp lý (Điều 11, Luật HN&GĐ). Việc các cặp đồng tính tổ chức lễ cưới mà bị phạt theo quy định này (như trường hợp ở Hà Tiên vào tháng 5/2012) là đã nhầm lẫn giữa khái niệm “kết hôn” và “tổ chức tiệc”. Việc chính quyền bắt nhà hàng cam kết không tổ chức tiệc cho các cặp đồng tính (như trường hợp ở Bình Dương vào tháng 7/2012) hay gọi lên “giáo dục”, yêu cầu tách rời nhau (như trường hợp ở Cà Mau vào tháng 2/2012) cũng là áp dụng pháp luật không có căn cứ và vi phạm quyền con người.
Từ những vấn đề tồn tại trên, Trung tâm ICS khuyến nghị Bộ Tư pháp xem xét lại tính thi hành trong thực tế của điều khoản này, đồng thời có những hướng dẫn cụ thể cho cán bộ tại chính quyền địa phương để tránh trường hợp giải thích pháp luật sai dẫn đến vi phạm quyền con người.