Trong buổi sáng ngày 31/5/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Giađinh.net phản ánh: Bộ Xây dựng vừa có văn bản gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xây dựng loại căn hộ có diện tích 20 - 30m² trong chung cư thương mại.
Bộ này đề nghị TP Hồ Chí Minh xem xét, đánh giá nhu cầu thực tế của loại căn hộ đó trên địa bàn và đề xuất của Công ty Đất Lành để hướng dẫn Công ty thực hiện dự án trên cơ sở quy định của pháp luật. Nếu thấy nhu cầu này có nhiều và cấp thiết thì có thể đề xuất cho phép xây dựng thí điểm loại căn hộ có diện tích nhỏ từ 20- 45m² với một tỷ lệ hợp lý trong nhà ở chung cư thương mại để có cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm, báo cáo cơ quan có thẩm quyền cho phép sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành cho phù hợp với thực tế.
Báo cũng phản ánh: Sau 2 năm được cấp giấy chứng nhận đầu tư, dự án (DA) xây dựng Nhà máy Lọc dầu Cần Thơ vẫn giậm chân tại chỗ. Với tổng số vốn đến 538 triệu USD nhưng năng lực tài chính của các nhà đầu tư vào dự án này đã không được các cơ quan chức năng thẩm định đúng mức. Ngày 17-4-2008, Thủ tướng Chính phủ đã có công văn chấp thuận cho đầu tư DA Nhà máy Lọc dầu tại Cần Thơ. Ngày 19-5-2008, UBND TP Cần Thơ đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty TNHH Nhà máy Lọc dầu Cần Thơ. Chính phủ rất quan tâm đến quá trình triển khai DA này nên Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã có công văn yêu cầu UBND TP Cần Thơ phải báo cáo tiến độ thực hiện DA hằng tháng cho Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, ông Trần Thanh Cần, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch-Đầu tư (KH-ĐT) TP Cần Thơ, cho rằng: “Tiến độ triển khai DA không nhiều nên có lúc phải “chuyển” từ báo cáo tháng sang báo cáo quý”.
Điều khiến dư luận đặc biệt quan tâm là sau khi DA đã được thẩm định tính khả thi thì chỉ trong vòng 10 ngày (15 đến 24-7-2009) sau chuyến khảo sát tại Trung Quốc, nhà đầu tư đã thay đổi quy mô DA. Nguyên nhân của sự thay đổi này theo lý giải của các cơ quan chức năng TP Cần Thơ là “do lựa chọn công nghệ mới (?)” Theo đó, giảm diện tích đất của dự án từ 250 ha xuống còn 50 ha, tổng vốn đầu tư từ 538 triệu USD còn 350 triệu USD. Điều chỉnh DA chưa được bao lâu, Công ty Semtech Limited đã “bỏ của chạy lấy người” vì không có khả năng thực hiện. Trước tình hình trên, ông Nguyễn Văn Đức, Tổng Giám đốc Công ty Viễn Đông, cho biết: “Hiện đơn vị đã tìm được đối tác mới để góp vốn là Tập đoàn Đầu tư Hoa Việt và một công ty thành viên của tập đoàn này để thành lập một công ty cổ phần, tái cấu trúc 100% nguồn vốn trong nước để thực hiện DA”. Tuy nhiên, tại buổi làm việc giữa đoàn kiểm tra liên ngành Bộ KH-ĐT và lãnh đạo TP Cần Thơ vào ngày 18-5, Sở KH-ĐT TP Cần Thơ cho biết: Mặc dù đã tìm được đối tác mới là Tập đoàn Đầu tư Hoa Việt nhưng chủ đầu tư chưa chứng minh được nguồn vốn thực hiện DA và hứa 90 ngày sau mới chứng minh được việc này.
Ngày 27-5, trao đổi với phóng viên Báo NLĐ, ông Trương Văn Hải, Phó Chủ tịch Thường trực UBND phường Phước Thới, quận Ô Môn, cho biết: “Vị trí xây dựng Nhà máy Lọc dầu Cần Thơ sau khi điều chỉnh quy hoạch được xác định triển khai ở khu vực Thới Ngươn B. Tuy nhiên, nđến nay vẫn chưa có quy hoạch chi tiết”.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Trao đổi với báo chí hôm 27.5, Đại sứ Nhật Bản Mitsuo Sakaba cho biết, căn cứ thỏa thuận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe về việc phía Nhật giúp VN xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc, từ năm 2007-2009 Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã tiến hành khảo sát hệ thống giao thông vận tải của VN và có báo cáo gửi Chính phủ 2 nước.
Bản báo cáo này nhấn mạnh rằng, sẽ có rất ít hành khách chọn tuyến đường sắt cao tốc này để đi từ Hà Nội -TP.HCM hoặc ngược lại, bởi hành trình sẽ mất khoảng 6 giờ trong lúc máy bay thì chưa đầy 2 giờ, giá vé tàu cao tốc lại đắt không kém vé máy bay. Hành khách tiềm năng của tuyến đường cao tốc này là những người đi chặng ngắn như Hà Nội - Thanh Hóa, Hà Nội - Vinh, Vinh - Huế, Vinh - Đà Nẵng...
Kết luận của báo cáo này là tuyến đường sắt sẽ có ích lợi vào khoảng năm 2030-2035, khi Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng đã phát triển ở một tầm cao nhất định. Chính vì vậy, Bộ trưởng Giao thông Nhật Bản Seiji Maehara trong chuyến thăm VN vào tháng 5.2010 đã nêu ý kiến rằng, dự kiến đưa tàu cao tốc vào sử dụng năm 2020 của VN có thể là quá sớm do các điều kiện kinh tế - xã hội của VN chưa đủ để khai thác hệ thống này một cách tối đa.
Theo Đại sứ Mitsuo Sakaba, Chính phủ Nhật Bản sẵn sàng hợp tác với VN trong việc xây dựng hệ thống đường sắt này. Tuy nhiên, phía Nhật Bản cho rằng VN nên xây dựng từng đoạn một thay vì xây dựng cùng lúc toàn tuyến Hà Nội - TP.HCM.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 30-5, tại Khu kinh tế Dung Quất, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã chính thức nhận chìa khóa tượng trưng bàn giao Nhà máy lọc dầu Dung Quất từ tổ hợp nhà thầu Technip.
Ngay sau khi nhận bàn giao nhà máy từ nhà thầu, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đã trao chìa khóa tượng trưng lại cho Công ty TNHH một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn - đơn vị đứng ra trực tiếp quản lý và vận hành Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sự kiện Nhà máy lọc dầu Dung Quất - công trình trọng điểm quốc gia có tổng vốn đầu tư trên 3 tỉ USD, công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm được Chính phủ giao cho Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam triển khai thực hiện tại Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) được bàn giao đánh dấu một mốc quan trọng đối với ngành lọc hóa dầu quốc gia, góp phần đảm bảo và tự chủ khoảng 33% nhu cầu xăng dầu trong nước, đảm bảo một phần về an ninh năng lượng.
Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam cho biết kế hoạch sắp tới, Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ được nâng công suất từ 6,5 triệu tấn/năm lên 10 triệu tấn/năm.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công anh nhân dân có bài Giám đốc Sở Tư pháp Phú Yên chỉ đạo kiểm tra, xử lý vụ việc Báo CAND nêu. Bài báo phản ánh: Ông Huỳnh Xuân - Giám đốc Sở Tư pháp Phú Yên đã triệu tập cuộc họp với sự tham dự của lãnh đạo các phòng nghiệp vụ có liên quan và đã chỉ đạo ông Lê Tiến Dũng - Chánh thanh tra Sở Tư pháp Phú Yên tiến hành kiểm tra những sai phạm trong hoạt động công chứng của công chứng viên Nguyễn Trung Đoàn - Văn phòng công chứng Phú Yên ở phường Phú Lâm, TP Tuy Hòa.
Được biết ngay sau khi báo CAND có bài viết liên quan đến những dấu hiệu sai phạm trong hoạt động công chứng của công chứng viên Nguyễn Trung Đoàn - Văn phòng công chứng Phú Yên ở phường Phú Lâm, TP Tuy Hòa, ông Huỳnh Xuân - Giám đốc Sở Tư pháp Phú Yên đã triệu tập cuộc họp với sự tham dự của lãnh đạo các phòng nghiệp vụ có liên quan và đã chỉ đạo ông Lê Tiến Dũng - Chánh thanh tra Sở Tư pháp Phú Yên tiến hành kiểm tra vụ việc báo nêu để có hướng xử lý sai phạm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Công chứng ngoài giờ, ngoài trụ sở: Sai luật nhưng tiện cho dân. Bài báo phản ánh: Bài “Công chứng viên mang dấu đi “công chứng... dạo”” (Pháp Luật TP.HCM ngày 27-5) phản ánh trưởng văn phòng Công chứng Phú Yên (Phú Yên) đã lạm dụng việc công chứng ngoài giờ, ngoài trụ sở. Luật Công chứng quy định rõ: Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp quy định (Điều 39). Tổ chức hành nghề công chứng phải thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước (khoản 2 Điều 32). Đối chiếu hai quy định này thì trưởng văn phòng công chứng trên đã làm không đúng pháp luật trong việc tùy tiện công chứng ngoài giờ, tại nhà theo yêu cầu. Việc thanh tra của sở tư pháp tỉnh là phù hợp.
Có một chi tiết được đề cập trong bài, mặc dù Văn phòng Công chứng Phú Yên bị cho là làm sai nhưng người dân lại thích cách làm của họ vì “linh hoạt, giảm bớt thời gian đi lại cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu mọi lúc, mọi nơi”. Trong việc công chứng ngoài trụ sở, ngoài giờ, xét về nhu cầu là có. Xét về khả năng đáp ứng cũng có bởi nhiều văn phòng công chứng đang mong muốn được làm việc 24/24 giờ. Vậy tại sao cung-cầu không thể gặp nhau?
Trước khi có Luật Công chứng thì Nghị định 75/2000 cũng chỉ cho phép công chứng ngoài trụ sở đối với vài trường hợp quy định. Nay dự thảo thông tư hướng dẫn Luật Công chứng đang được Bộ Tư pháp xây dựng trên cơ sở siết chặt tương tự. Người yêu cầu công chứng bên ngoài phải có đơn yêu cầu, ghi rõ lý do; công chứng viên sẽ xem xét và lưu trong hồ sơ công chứng. Theo đại diện các cơ quan quản lý, sở dĩ phải quy định như thế vì việc công chứng ngoài trụ sở có nhiều nguy hiểm (như người dân sẽ “bồi dưỡng” cho công chứng viên); việc công chứng một hợp đồng, giao dịch phải được nghiên cứu, thực hiện ở trụ sở cơ quan để bảo đảm tính độc lập, công khai, minh bạch của việc chứng v.v…
E rằng những lo ngại như thế không có cơ sở. Nếu khách hàng đã muốn “bồi dưỡng” thì tại trụ sở cũng “bồi dưỡng” được. Ngoài ra, chất lượng công chứng tùy thuộc vào lao động và trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, không liên quan đến địa điểm công chứng. Ví như khi công chứng một di chúc về nhà đất, công chứng viên phải xem xét bất động sản đó có giấy chủ quyền hợp pháp chưa, người làm di chúc có minh mẫn, tự nguyện không… Những thủ tục này là bắt buộc, làm ở trong hay ở ngoài trụ sở cũng đều như nhau. Từ khi nhà nước thực hiện xã hội hóa công chứng bằng cách cho ra đời các văn phòng công chứng thì tình thế đảo ngược hết sức tích cực. Người đi làm hồ sơ công chứng từ chỗ phải thông qua “cò” hoặc phải “lụy” các phòng công chứng, giờ được chính các phòng này “o bế” bằng thái độ phục vụ chu đáo.
Phát huy ưu điểm này, nên chăng nhà nước tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa để người dân được phục vụ tốt hơn nữa. Thay vì “hành chính hóa” hoạt động công chứng, pháp luật có thể cho phép mở rộng địa điểm, thời gian công chứng. Bấy giờ, tự các công chứng viên sẽ thẩm định trường hợp nào cần làm ở trụ sở, trường hợp nào có thể làm ở ngoài trụ sở và tự chịu trách nhiệm về việc công chứng của mình. Cá nhân nào làm sai thì các cơ quan quản lý cứ mạnh tay xử lý cá nhân đó. Về con dấu, khoản 4 Điều 6 Nghị định 58 ngày 24-8-2001 của Chính phủ quy định: “Con dấu phải được để tại trụ sở cơ quan, tổ chức và phải được quản lý chặt chẽ. Trường hợp thật cần thiết để giải quyết công việc ở xa trụ sở cơ quan thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức đó có thể mang con dấu đi theo và phải chịu trách nhiệm về việc mang con dấu ra khỏi cơ quan”.
Như vậy, mang dấu “đi công chứng dạo” chỉ là cách nói vui vì pháp luật cho phép thủ trưởng các cơ quan mang theo con dấu khi cần thiết giải quyết công việc ở xa trụ sở. Trường hợp muốn hạn chế những sự cố phát sinh từ việc cầm theo con dấu (bị thất lạc, hư hỏng…), các cơ quan có thể hướng dẫn thêm việc này. Nhưng theo tôi được biết, trước giờ đa phần các công chứng viên sau khi thực hiện việc công chứng ở bên ngoài đều mang văn bản về trụ sở đóng dấu.
Báo cũng có bài “Bồi hoàn phí luật sư, được không?”. Bài báo phản ánh: Thực tiễn xét xử, các tòa thường bác yêu cầu đòi bồi hoàn chi phí cho việc theo kiện của đương sự như tiền thuê luật sư, photocopy giấy tờ… Vì vậy việc mới đây, TAND tỉnh Tiền Giang buộc bị đơn phải trả hơn 150 triệu đồng phí luật sư của nguyên đơn đã gợi nhiều băn khoăn… Năm 2007, Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp với sản phẩm bánh tráng hiệu K. kèm ảnh cho Công ty TP. Một năm sau, Cục cấp tiếp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho Công ty TP. Sau đó, Công ty TP tiếp tục đăng ký sản phẩm bánh K. tại Mỹ và đã được bảo hộ nhãn hiệu cùng kiểu dáng công nghiệp.
Tháng 11-2009, Công ty TP phát hiện một số siêu thị ở Mỹ có bày bán mặt hàng bánh tráng hiệu K’có màu sắc tương tự, khó phân biệt và gây nhầm lẫn với nhãn hiệu bánh K. của công ty được bảo hộ. Lần theo, công ty biết Công ty TG đã sản xuất bánh tráng hiệu K’ trên. Qua đối chất, Công ty TG thừa nhận vào ngày 8-9-2009 có xuất bánh tráng K’sang Mỹ. Nhãn hiệu này do khách hàng bên Mỹ đặt gắn lên bao bì sản phẩm. Tháng 12-2009, Công ty TP đã nhờ luật sư tại Mỹ gửi công văn khuyến cáo Công ty TG về hành vi xâm phạm nhãn hiệu. Tháng 2-2010, Công ty TP đã kiện Công ty TG ra TAND tỉnh Tiền Giang, yêu cầu chấm dứt hành vi sản xuất và xuất khẩu loại bánh K’, thu hồi toàn bộ lượng bánh đã xuất khẩu, bán trên thị trường Mỹ. Công ty TP còn yêu cầu Công ty TG phải thanh toán hơn 153 triệu đồng cho luật sư, gồm 5.000 USD phí luật sư ở Mỹ và 60 triệu đồng phí luật sư tại Việt Nam...
Tháng 5-2010, TAND tỉnh Tiền Giang xử sơ thẩm, nhận định việc Công ty TG sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu của Công ty TP, vốn đã được cấp giấy chứng nhận bảo hộ về nhãn hiệu trên cùng một loại hàng hóa là vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ. Việc Công ty TG nại rằng thực hiện theo hợp đồng với khách nước ngoài nên lỗi vi phạm này thuộc bên thứ ba là không có cơ sở. Từ đó, tòa buộc Công ty TG phải chấm dứt hành vi sản xuất, xuất khẩu, đồng thời thu hồi toàn bộ mặt hàng bánh tráng K’ trên thị trường Mỹ. Về phần phí luật sư, tòa nhận định chi phí này của Công ty TP là hợp lý, cần thiết, cần chấp nhận bởi phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ. Điều này cũng đã có lợi cho phía bị đơn bởi nguyên đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần…
Có thể nói đây là lần đầu tiên một tòa án chấp nhận yêu cầu bồi hoàn chi phí thuê luật sư của đương sự. Trước đây, gặp tình huống này, các tòa đều bác, lập luận rằng một khi đương sự đã chủ động quyết định thuê luật sư thì phải tự lo. Tòa chỉ chấp nhận những khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và thật sự cần thiết. Theo một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM, Điều 144 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định chi phí cho luật sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thỏa thuận của đương sự với luật sư, trong phạm vi quy định của văn phòng luật sư và quy định của pháp luật. Chi phí cho luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Vì thế, chi phí luật sư không phải là chi phí cần thiết để đeo đuổi một vụ kiện, từ đó bắt phía vi phạm trong vụ án phải gánh chịu.
Đồng tình, một thẩm phán TAND quận 11 (TP.HCM) cũng cho rằng kết quả giải quyết một vụ án do tòa quyết định, không phụ thuộc vào yếu tố có hay không có luật sư. Có thể nói rằng dù có hay không có luật sư, tòa vẫn phải giải quyết vụ việc đúng pháp luật. Ở một góc độ khác, luật sư Châu Huy Quang (Hãng luật LCT Lawyers) phân tích: Theo khoản 3 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu tòa buộc bên vi phạm phải bồi hoàn chi phí hợp lý để thuê luật sư. Dù có khác với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng đây có lẽ là điểm tiến bộ trong quá trình cải cách tư pháp ở chỗ thừa nhận việc luật sư tham gia hỗ trợ pháp lý cho đương sự là một nhu cầu cần thiết, hợp lý. Hơn nữa, việc tòa tuyên buộc bên vi phạm phải bồi hoàn khoản phí này cũng là một cách răn đe các hành vi tương tự.
Báo cũng có bài “Quản lý game online: Nghẹt thở vì luật”. Bài báo phản ánh: Nhiều năm qua, doanh nghiệp kinh doanh trò chơi trực tuyến (game online) chỉ hoạt động qua sự điều chỉnh của Thông tư liên tịch số 60 về việc quản lý trò chơi trực tuyến. Mới đây, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành dự thảo quy chế về quản lý trò chơi trực tuyến. Luật Công nghệ thông tin cũng sắp có hiệu lực.
Theo các ý kiến tổng hợp của Hiệp hội Doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (VINASA) tại cuộc họp đóng góp ý kiến ngày 28-5, mặc dù các quy định không có nhiều mâu thuẫn nhưng một số điều khoản sẽ ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp. Cụ thể là bất hợp lý trong quy định quản lý giờ chơi và việc quản lý máy chủ. Theo dự thảo quy chế về quản lý trò chơi trực tuyến, các doanh nghiệp phải tắt máy chủ sau 22 giờ. Thế nhưng theo các ý kiến từ Hiệp hội Doanh nghiệp phần mềm, việc tắt máy mỗi ngày sẽ làm tình trạng lỗi game phát sinh khiến khiếu kiện tăng và gây mất lòng tin trong game thủ. Bên cạnh đó là việc tắt máy chủ sẽ khiến các doanh nghiệp mất lượng khá lớn khách hàng ở nước ngoài vì không hợp múi giờ. Đó là chưa kể việc giới hạn các game thủ chỉ được chơi 3-4 giờ mỗi ngày sẽ khiến game thủ chuyển sang chơi các máy chủ nước ngoài. Bên cạnh đó là quy định về cách xác định trò chơi trực tuyến đơn giản hay bình thường, các trò chơi ưu tiên và không ưu tiên và do một ban xét duyệt quyết định cũng chưa hợp lý. Theo các doanh nghiệp, thực tế Việt Nam tính đến cuối năm 2009 có 58 trò chơi trực tuyến và hầu như các tiêu chuẩn về trò chơi trực tuyến đã được xác định theo tiêu chuẩn quốc tế nên việc xét duyệt sẽ dễ bị cảm tính. Ngoài ra, quy định muốn phát hành game phải mất một năm để đăng ký, theo các doanh nghiệp, điều này sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc đàm phán với các đối tác và lựa chọn các game kinh doanh phù hợp. Theo nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin, trò chơi trực tuyến và phi trực tuyến có nguồn gốc từ nước ngoài có thể bị áp thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 30%. Điều này khiến các doanh nghiệp kinh doanh khá lo âu vì thực tế đa phần lợi nhuận phải chia cho đối tác và doanh thu không còn cao như trước.
Ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hội Tin học TP.HCM, nhận định thực ra các quy định về quản lý game online có nhiều vấn đề bất hợp lý và phải cần có nhiều thời gian để đóng góp ý kiến, cho ra một văn bản phù hợp. Đặc biệt là quy định quản lý giờ chơi và đăng ký game trước đó một năm mới được phát hành là không hợp lý. Cũng theo ông Dũng, việc quản lý game nên phân chia theo từng đối tượng, từng lĩnh vực và từng loại hình doanh nghiệp để quản lý, như thế sẽ phù hợp hơn. Tuy nhiên, riêng về các mức thuế thì không có gì đáng bàn cãi, vì các doanh nghiệp có doanh thu cao thì phải có đóng góp cho nhà nước. Tuy nhiên, ông Hoàng Trọng Hiếu, Phó Giám đốc truyền thông VTC Game, chia sẻ việc đánh thuế tiêu thụ với doanh nghiệp sẽ làm ảnh hưởng lớn đến thị trường game online. Bởi thực tế, hiện nay số lượng trò chơi quá nhiều và nhiều doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau. Bên cạnh đó, doanh thu từ một trò chơi không còn cao như trước, trung bình doanh thu từ game thủ chỉ vài chục ngàn đồng/tháng.
3. Báo Công an nhân dân có bài Cần xử nghiêm công chứng viên làm sai. Bài báo phản ánh: "Tôi đọc rất kỹ loạt bài đó. Rất cảm ơn Báo CAND đã điều tra, xác minh và đăng tải phóng sự phản ánh thực trạng hoạt động công chứng và gợi mở rất nhiều suy nghĩ về lĩnh vực này. Nó rất có ích, ngay cả đối với những người hoạch định chính sách…" - Bộ trưởng Hà Hùng Cường (HHC) mở đầu cuộc phỏng vấn bằng những lời nhận xét về loạt bài điều tra "Nhận diện kẽ hở công chứng" vừa được đăng trên Báo CAND. PV:Thưa Bộ trưởng, loạt bài của Báo CAND cho thấy ngoài sự bất cẩn một cách đáng tiếc của một số người dân thì đã có hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực công chứng gây ra bởi kẻ lừa đảo và những công chứng viên thiếu trách nhiệm. Có công chứng viên (CCV) ký giao dịch chỉ trên cơ sở là các giấy tờ phôtô do các bên giao dịch xuất trình, thậm chí còn ký trước, cho bổ sung giấy tờ sau,… Hậu quả của việc này không chỉ là thiệt hại tài sản cho người tham gia giao dịch, mà lớn hơn là niềm tin của xã hội đối với mỗi giao dịch công chứng. Ý kiến ông ra sao trước thực trạng này?
Bộ trưởng HHC: Cách làm việc của các CCV như vậy là vô cùng bất cẩn, không thể chấp nhận được. Công chứng là chứng nhận trực tiếp về năng lực hành vi dân sự, về người ký văn bản, về việc giao dịch,… anh phải đối chiếu tất cả các giấy tờ tin cậy thì mới cho giao dịch. Chữ ký cũng phải ký "tươi" trước mặt CCV. Đó là nguyên tắc pháp lý và là đạo đức nghề nghiệp, nhưng có CCV lại cả tin chấp nhận cả những văn bản phôtô, văn bản chứng thực ở chỗ này chỗ khác mà không kiểm tra, đối chiếu,… Đó là điều không thể chấp nhận được đối với người hành nghề công chứng. Bộ Tư pháp đang chờ kết quả điều tra một số vụ việc và thanh tra một số tổ chức hành nghề công chứng, rồi sẽ có cảnh báo chung trong "làng" công chứng để mỗi CCV rút kinh nghiệm cho mình. Công chứng mang lại niềm tin cho các bên giao dịch, mà đối tượng giao dịch thường là tài sản không nhỏ, nhiều khi là gia sản của cả đời cả gia đình người ta. Cho nên người làm nghề này phải vô cùng thận trọng.
Hoạt động công chứng hiện nay được mở rộng, được xã hội đón nhận thì đáng mừng, nhưng cũng có những cái ban đầu không tốt và đã phát sinh không ít "vấn đề" mà chúng tôi đang theo dõi. Vừa rồi Bộ Tư pháp cũng đã sơ kết 3 năm thực hiện Luật Công chứng và đã đúc rút một số vấn đề. Tiêu cực thì còn cần phải chứng minh, nhưng sự bất cẩn của CCV thì rất rõ và cũng xảy ra không ít như tiếp nhận giấy tờ phôtô trong khi quy định phải là bản chính, rồi CCV ký trước, ký khống giấy tờ bổ sung sau,… Nghề công chứng không được đặt niềm tin hoặc lợi ích cá nhân lên trên mà trên hết phải là nguyên tắc pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Làm trong lĩnh vực luật pháp đã thận trọng thì nghề công chứng lại càng phải thận trọng vì anh hành nghề độc lập, phải tự mình quản lý, tự mình chịu toàn bộ trách nhiệm với giao dịch mình ký. Với những gì chúng tôi đã nắm được kết hợp với những phản ánh của báo, bên cạnh việc rút kinh nghiệm chung trong quản lý nhà nước đối với nghề công chứng thì tới đây chắc chắn sẽ phải quan tâm siết chặt hơn nữa hoạt động nghề nghiệp này. Như báo chí phản ánh, có VPCC để xảy ra gần 200 giao dịch có vấn đề là rất lớn, rất đáng báo động.
PV:Sai phạm của CCV trong một số vụ việc là rất rõ, thậm chí không loại trừ sai do cố ý. Theo ông, việc xử lý nghiêm khắc, thậm chí là bằng biện pháp hình sự đối với CCV sai phạm có giúp hoạt động công chứng tốt hơn không?
Bộ trưởng HHC:Sai phạm thì rõ ràng phải xử lý nghiêm khắc, đúng mức độ. Tôi rất ủng hộ việc làm trong sạch đội ngũ này, qua đây làm bài học chung cho những người hoạt động trong lĩnh vực hành nghề công chứng. Tôi nghĩ rằng bước đi ban đầu của một nghề bao giờ cũng có cái này cái khác. Có khi vấp ngã sẽ làm cho nghề đó thêm những sự trưởng thành.
PV:Thưa Bộ trưởng, hoạt động công chứng hiện nay có bất cập là ngay cả những CCV rất có trách nhiệm, có kinh nghiệm nhưng cũng khó mà kiểm soát được khi công nghệ làm giả giấy tờ hiện rất tinh vi.
Bộ trưởng HHC:Cái đó cũng "tội" cho anh em, không có máy móc để phát hiện cái giả, cái thật, nhưng nói chung đã vào nghề đó thì phải có rèn luyện, có bản năng. Tôi thấy dường như các CCV trưởng thành từ các phòng công chứng của Nhà nước trước đây giờ tách ra làm riêng thì họ làm cẩn trọng hơn. Các CCV cần phải nâng cao trách nhiệm và kỹ năng lên hơn nữa.
PV:Các CCV từ lâu đã ước ao có được một hệ thống dữ liệu liên thông giữa các tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan đăng ký tài sản, nhưng nay vẫn chưa thấy bóng dáng. Đây cũng là cơ chế quan trọng bảo đảm an toàn cho các giao dịch. Họ còn phải chờ đợi đến bao giờ?
Bộ trưởng HHC:Vấn đề này, chúng tôi đã đưa vào dự án Luật đăng ký bất động sản, hoạt động công chứng sẽ được gắn kết với đăng ký bất động sản,… nhưng Quốc hội chưa thông qua dự án luật này. Qua sơ kết 3 năm thực hiện Luật Công chứng, cộng thêm những vấn đề thực tế được báo chí nêu vừa qua, chúng tôi sẽ xúc tiến mạnh hơn nữa việc ban hành một nghị định mới thay thế Nghị định 08/CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong đó, hướng tới sẽ buộc công chứng phải chia sẻ thông tin cho các văn phòng đăng ký bất động sản và ngược lại. Tất nhiên, nếu có luật quy định về vấn đề này thì sẽ tốt hơn nhiều.
PV:Luật cũng không phải là "cây đũa thần", bởi thưa Bộ trưởng, hiện ở các huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì UBND xã vẫn phải công chứng, trong khi thẩm quyền chỉ được chứng thực. Vậy cái sự liên thông về hệ dữ liệu công chứng, đăng ký tài sản có lẽ vẫn còn rất xa vời?
Bộ trưởng HHC:Đúng là có tình trạng đó. Chính vì vậy mà cuối năm nay Bộ Tư pháp sẽ trình Thủ tướng một Bản quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đến 2020 tầm nhìn 2030. Từ đó "phủ sóng" công chứng tới tất cả các huyện ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa để chấm dứt thời kỳ quá độ là "chứng thực" vẫn làm thay "công chứng".
PV: Có ý kiến cho rằng quy hoạch cứng đó sẽ làm giảm đi cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng phục vụ giữa các tổ chức hành nghề công chứng?
Bộ trưởng HHC: Dịch vụ công chứng không phải là dịch vụ bình thường, không phải càng nhiều càng tốt. Giao dịch được chứng thực đòi hỏi trách nhiệm suốt đời của CCV. Không thể lập ra một Văn phòng công chứng rồi ngày mai giải thể được. Các nước đều không cho phát triển công chứng theo kiểu cạnh tranh như vậy mà chỉ cho phát triển đến mức đáp ứng nhu cầu xã hội và phải kiểm soát được. Phủ rộng công chứng ở đây là để phục vụ cho người dân, không phải như lĩnh vực dịch vụ khác, càng nhiều càng tốt. Ví dụ dịch vụ khác như bán hàng thì họ chỉ bảo hành 6 tháng, 1 năm hoặc 3 năm, nhưng công chứng thì phải chịu trách nhiệm cả đời nên nó khác.
PV:Vậy với khá nhiều "vấn đề" của công chứng hiện nay, giải pháp khắc phục tới đây sẽ là gì, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng HHC:Trước đây chúng ta chưa nhìn được toàn diện, chưa thấy hết vai trò của công chứng trong nền kinh tế và xã hội, nên khi ban hành Luật Công chứng chủ yếu nhằm phát triển công chứng mà không nhìn các mặt khác. Đó là mối liên quan của công chứng với các lĩnh vực khác như về đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất,... đó là mối quan hệ giữa công chứng với thuế và các hoạt động kinh tế khác. Thành ra, hoạt động công chứng hiện nay có thể nói là hơi đơn độc. Ở các nước, vai trò công chứng gần như là đầu mối, là trung tâm, tựa như "một cửa" ở ta. Luật của nhiều nước quy định các VPCC được quyền chia sẻ thông tin với cơ quan thuế, cơ quan đăng ký tài sản,…
Chúng ta hiện nay phát triển ra như vậy, nhưng ngay cả các phòng công chứng của nhà nước cũng chưa có sự chia sẻ thông tin về những giao dịch mình đã công chứng. Hải Phòng thì đã có cố gắng để có ngân hàng dữ liệu chung về công chứng trên địa bàn thành phố. Hà Nội, TP HCM cũng đang bắt đầu, nhưng đó mới chỉ là lẻ tẻ, muốn làm tổng thể thì cần phải có quy định của luật. Về những vấn đề liên quan, tới đây chúng tôi sẽ đề nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điểm như liên quan đến tiêu chuẩn CCV, đào tạo CCV về nghề, về đạo đức,… Tôi nhấn mạnh là phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, sự cẩn trọng của CCV là vô cùng quan trọng. Còn về quản lý nhà nước thì nói thật là không bao quát hết được vì công chứng là hoạt động nghề nghiệp độc lập. Hiện nay, Hà Nội và TP HCM cũng đang xin phép lập hội nghề công chứng để tự họ sẽ quản lý, giám sát lẫn nhau, học tập nhau. Cái đó tôi cho là tốt, sẽ giúp khắc phục phần nào những vấn đề hiện nay của công chứng.