Điểm tin báo chí các ngày 16, 17 tháng 3 và sáng ngày 18 tháng 3 năm 2013

18/03/2013
Trong các ngày 16, 17/3 và đầu giờ sáng ngày 18/3/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

            I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:

            - Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cần có Hội đồng Bảo hiến và Hội đồng Tư pháp. Bài báo phản ánh: Ghi nhận các ý kiến góp ý hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (HP) 1992, giới thiệu góc nhìn của bà Lê Thị Thu Ba, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.

            Từ HP 1946 đến nay - trừ giai đoạn HP 1980 ảnh hưởng nhiều từ mô hình nhà nước Xô viết - trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta luôn có thiết chế Chủ tịch nước (CTN). Nay Dự thảo sửa đổi HP 1992 cũng vậy, duy trì một chương về CTN, xác định “CTN là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.

            Dự thảo cũng tiếp tục quy định rõ hơn thẩm quyền của CTN ở vị trí gắn kết ba quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp. Chẳng hạn, CTN có thẩm quyền công bố luật, pháp lệnh, dự họp Ủy ban Thường vụ QH - gắn với lập pháp; đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng, dự họp Chính phủ (CP) - gắn với hành pháp; đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm chánh án TAND Tối cao, căn cứ vào nghị quyết QH mà bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán TAND Tối cao...

            Vấn đề cần bàn thêm là CTN tham gia thế nào để đáp ứng yêu cầu về kiểm soát quyền lực nhà nước - nội dung rất mới được đưa vào dự thảo sửa đổi HP lần này.

            Góp ý vào nội dung này, xin bắt đầu từ Hội đồng HP. Về bản chất, đây là thiết chế được sinh ra để bảo vệ HP. Vậy thì đừng né tránh, mà hãy gọi đúng tên của nó: Hội đồng Bảo hiến - tên gọi mà nhiều nước khác đang sử dụng.

            Nếu gọi đúng tên như thế, các quyền kiểm tra tính hợp hiến, kiến nghị QH xem xét lại các luật bị phát hiện vi hiến, yêu cầu CP, Thủ tướng, TAND Tối cao, VKSND Tối cao... sửa đổi văn bản vi hiến - được nêu trong dự thảo - là chưa đủ. Thẩm quyền hẹp như vậy chưa đáp ứng được yêu cầu mà Đại hội X đề ra là “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm HP trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

            Theo đúng định hướng ấy, dự thảo cần phải thiết kế lại để Hội đồng Bảo hiến có vị trí độc lập (tương tự như thiết chế kiểm toán Nhà nước trong dự thảo) và có thẩm quyền đầy đủ trong tiền kiểm (chẳng hạn, quyền phát biểu với QH trước khi thông qua luật, nghị quyết), hậu kiểm (kiểm tra tính hợp hiến của những văn bản pháp luật đã ban hành mà bị phản ánh, khiếu nại là vi hiến) và phán quyết về cả hành vi bị khiếu nại là vi hiến. Để thực hiện các nhiệm vụ ấy, Hội đồng Bảo hiến cũng phải được trao quyền để trở thành thiết chế chuyên nghiệp về giải thích HP, thay vì lâu nay giao cho Ủy ban Thường vụ QH mà chưa thấy bao giờ vận hành. Như thế sẽ giúp cho HP trở nên có sức sống, không để các quy phạm HP bị “treo” như một số nhận xét lâu nay.

            Thiết kế Hội đồng Bảo hiến với thẩm quyền phản ánh đúng tên gọi của nó chính là tạo ra một cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước, hỗ trợ các cơ chế khác vẫn đang tồn tại.

            Với các chức năng, nhiệm vụ ấy, HP nên mạnh dạn giao CTN làm chủ tịch Hội đồng Bảo hiến, bên cạnh là các phó chủ tịch, các thành viên do QH bầu - gồm đại diện từ CP, QH, TAND Tối cao, VKSND Tối cao... và cả chuyên gia đầu ngành, có uy tín thuộc các lĩnh vực KT-XH và pháp lý. Quy định như vậy là phù hợp với vị trí gắn kết quyền lực của CTN.

            Quy định vị thế độc lập, thẩm quyền đầy đủ như vậy cho Hội đồng Bảo hiến, với CTN là người đứng đầu không hề mâu thuẫn với vị trí của QH - được giữ nguyên như HP 1992 - là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bởi dù là “cao nhất” thì QH cũng như các cơ quan nhà nước khác đều phải chịu sự kiểm soát quyền lực. Hơn nữa, một cơ quan bảo hiến hiệu quả cũng chính là để QH thực hiện tốt hơn trách nhiệm cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của mình.

            Cũng liên quan đến phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực, để tòa án thực sự là cơ quan thực hiện quyền tư pháp với đầy đủ quyền năng độc lập của nó thì cần tính đến việc hình thành một Hội đồng Tư pháp quốc gia, do CTN đứng đầu.

            Hệ thống tòa án lâu nay đang có sự lẫn lộn giữa quan hệ tố tụng - vốn đề cao tính độc lập, với quan hệ hành chính - bản chất là mệnh lệnh, trên dưới. Xét xử là hoạt động chủ yếu, trọng tâm nhất và cũng là chức năng cơ bản nhất của tòa án, đang được yêu cầu cải cách để tăng cường tính độc lập của thẩm phán (được khẳng định và nhấn mạnh hơn trong dự thảo sửa đổi HP). Nhưng sự độc lập của thẩm phán hoàn toàn có thể bị ảnh hưởng khi mà thẩm phán chịu sự quản lý về hành chính của chánh án trong bổ nhiệm, kỷ luật, khen thưởng, nâng bậc lương. Sự độc lập của tòa huyện, tòa tỉnh bị hạn chế khi mà họ là cấp dưới trong quan hệ hành chính với tòa cấp trên.

            Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đặt ra nhiều yêu cầu cải cách tư pháp. Mục đích là tăng tính độc lập của thẩm phán, không chỉ với cơ quan hành chính cùng cấp, mà cần được hiểu đầy đủ là độc lập ngay trong nội bộ tòa án. Thẩm phán độc lập, chỉ tuân theo pháp luật là độc lập với ngay cả các thành viên trong HĐXX, ngay trong tòa án với chánh tòa và với cả tòa phúc thẩm, tòa tối cao.

            Thiết lập Hội đồng Tư pháp quốc gia, có bộ máy giúp việc chuyên trách chính là tách phần hành chính ra khỏi tổ chức, hoạt động của tòa án. Hội đồng sẽ đánh giá năng lực, trình độ, tư cách đạo đức; khen thưởng, kỷ luật; thi tuyển, sát hạch thẩm phán; tham mưu với CTN về các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực tư pháp... Một thiết chế như vậy vừa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, vừa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của CTN khi gắn kết với nhánh quyền tư pháp.

            Hội nghị Trung ương 2 và Hội nghị Trung ương 5 khóa XI khi bàn về định hướng sửa đổi HP đã đặt ra yêu cầu nghiên cứu làm rõ hơn vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của CTN. Các kiến nghị nêu trên góp phần giải quyết yêu cầu đó, góp phần để chế định CTN vận hành hiệu quả hơn.

            2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Bộ tư pháp: Kết luận về sai phạm của Đà Nẵng bảo đảm tính pháp lý. Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp vừa có công văn báo cáo Thủ tướng Chính phủ liên quan đến mặt pháp lý đối với một số nội dung kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ về trách nhiệm của chủ tịch UBND TP Đà Nẵng trong việc chấp hành pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, thanh tra một số dự án đầu tư có dư luận trái chiều.

            Theo đó, Bộ Tư pháp khẳng định tất cả nội dung Thanh tra Chính phủ kết luận là có cơ sở pháp lý. Tại kết luận thanh tra nêu: “UBND TP Đà Nẵng giao cho các ban quản lý dự án hoặc các công ty (được TP giao quản lý và khai thác quỹ đất) ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các nhà đầu tư là trái với quy định của pháp luật”.

            Về vấn đề này, Bộ Tư pháp cho rằng theo quy định tại khoản 4 điều 5 Luật đất đai năm 2003 thì Nhà nước thực hiện việc trao quyền sử dụng đất thông qua các hình thức là giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất và việc giao đất được thực hiện bằng các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chứ không phải bằng việc ký các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các bên có nhu cầu sử dụng đất.

            Vì vậy, việc UBND TP Đà Nẵng giao cho các ban quản lý dự án hoặc các công ty ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các nhà đầu tư là trái pháp luật. Ngoài ra, việc UBND TP Đà Nẵng giao cho các ban quản lý dự án hoặc các công ty ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn vi phạm khoản 4 điều 37 Luật đất đai năm 2003, theo đó cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, không được phép ủy quyền cho người khác. Vì vậy, kết luận của Thanh tra Chính phủ là có cơ sở pháp lý.

            Cũng theo Bộ Tư pháp, trong trường hợp chủ đầu tư muốn chuyển từ đất sản xuất, kinh doanh sang làm đất ở thì phải làm thủ tục xin phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Việc cho phép chuyển mục đích sử dụng đất phải căn cứ trên cơ sở có sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và chủ đầu tư phải nộp số tiền chênh lệch giữa giá đất sản xuất, kinh doanh và giá đất ở.

            Như vậy, trong trường hợp việc giao đất cho mục đích sản xuất, kinh doanh và thu tiền sử dụng đất với mục đích sản xuất, kinh doanh nhưng khi cấp chứng nhận quyền sử dụng đất lại ghi thời hạn sử dụng lâu dài là không phù hợp với quy định của pháp luật đất đai và gây thất thoát cho ngân sách. Do đó, kết luận trên của Thanh tra Chính phủ là có cơ sở pháp lý.

            3. Báo Phụ nữ Online có bài Cảnh báo mua nhà đất qua “công chứng thừa phát lại”. Bài báo phản ánh: Tại H.Bình Chánh, H.Hóc Môn, Q.12 (TP.HCM) đang nở rộ dịch vụ mua bán nhà đất thông qua hình thức lập “công chứng thừa phát lại”. Việc mua bán này không hợp pháp, người mua sẽ gặp nhiều rủi ro. Tại các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, sau một thời gian yên ắng, tình trạng xây nhà không phép trên đất nông nghiệp đã có dấu hiệu bùng phát trở lại. Ngay sát khu dân cư Đồng Danh (ấp 1, xã Vĩnh Lộc A), nhiều chủ đất rao bán nhà xây trên đất nông nghiệp với giá từ 3,5 - 5 triệu đồng/m2. Hàng trăm ngôi nhà mọc lên trên đất nông nghiệp với lối đi vào các khu nhà chỉ là những bờ ruộng. Để tạo lòng tin cho khách, một số chủ đất cam kết sẽ công chứng thừa phát lại khi mua bán.

            Phóng viên tìm đến một văn phòng công chứng thừa phát lại trên đường CMT8, Q.Tân Bình, hỏi về giá trị pháp lý của kiểu "công chứng thừa phát lại" thì một thừa phát lại tên Ph. khẳng định: văn phòng có làm dịch vụ này nhưng không phải tên gọi “công chứng thừa phát lại” mà chỉ là lập vi bằng ghi nhận trực tiếp chứng kiến việc giao nhận tiền và ghi nhận thỏa thuận của các bên, chứ không làm hợp đồng mua bán và không chịu trách nhiệm về tính pháp lý. Người này giải thích thêm: việc mua bán này dành cho những nhà chưa có đủ giấy tờ theo quy định, người mua và người bán thường làm “giấy tay” mua bán, sau đó mời người làm chứng là tổ trưởng, hoặc hàng xóm nơi nhà đất tọa lạc làm chứng. Về phí dịch vụ cho việc lập vi bằng, người thừa phát lại này đưa ra hai mức giá: ba triệu đồng/vi bằng nếu hai bên mua bán làm tại trụ sở thừa phát lại và sáu triệu đồng/vi bằng tại nơi căn nhà tọa lạc.

            Theo luật sư Nguyễn Văn Cường, Đoàn Luật sư TP.HCM, việc mua bán nhà bằng hình thức trên là không hợp pháp, có thể sẽ có nhiều hệ lụy, rủi ro cho các bên tham gia giao dịch vì cơ quan thừa phát lại không có chức năng công chứng các giao dịch về bất động sản. Thẩm quyền của cơ quan thừa phát lại là chỉ lập vi bằng, ghi nhận sự kiện, hành vi được làm chứng cứ trong xét xử và trong quan hệ pháp lý khác (được quy định tại khoản 2, điều 2, Nghị định 61/2009/NĐ-CP). Cơ quan thừa phát lại lập “vi bằng”, không phải là “công chứng”, thì chỉ có ý nghĩa xác nhận có hành vi giao dịch. Hiện pháp luật về nhà ở, đất đai hiện hành chưa có quy định công nhận thẩm quyền của thừa phát lại trong hoạt động chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về nhà đất.

            4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cãi nhau chuyện nộp đơn thi hành án. Bài báo phản ánh: Cơ quan thi hành án (THA) bảo đương sự không gửi đơn đúng thời hiệu nhưng đương sự khẳng định đã nộp trong thời gian luật định.

            Mới đây, TAND TP.HCM quyết định nghị án kéo dài một vụ đòi giao nhà do vụ việc phức tạp. Trong đó nổi bật là chuyện ông Võ Ấn cho rằng mình đã yêu cầu THA đúng theo thời hiệu nhưng Chi cục THA dân sự quận Gò Vấp lại bảo chưa bao giờ nhận được yêu cầu này…

            Ngày 27-9-2004, cha và mẹ kế của ông Ấn ly hôn và được TAND TP.HCM xử phúc thẩm phân định mẹ kế của ông hưởng ngôi nhà nhưng phải trả lại cho cha ông 150 lượng vàng, 60 triệu đồng…

            Cùng năm đó, cha ông Ấn mất. Tiếp đó, mẹ kế của ông đã xác lập quyền sở hữu căn nhà do được cơ quan THA xác nhận đã ba năm sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực vẫn chưa có ai yêu cầu THA.

            Khi nhận được giấy tờ, mẹ kế ông Ấn đã bán nhà cho người khác. Do thấy ông Ấn cản trở việc giao nhà, người này khởi kiện, yêu cầu ông tôn trọng giao dịch mua bán nêu trên...

            Xử sơ thẩm, TAND quận Gò Vấp tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Ấn phải tạo điều kiện để giao nhà cho phía này. Tòa cho biết theo trả lời của phía cơ quan THA, đã hết thời hiệu THA bản án chia tài sản giữa cha và mẹ kế ông Ấn nhưng phía ông Ấn không nộp đơn yêu cầu THA. Như vậy, xét theo quy định, cơ quan chức năng cấp giấy tờ nhà cho mẹ kế của ông là phù hợp. Có giấy tờ nhà, bà này hoàn toàn có quyền bán tài sản cho người khác…

            Không đồng tình, ông Ấn kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm vừa qua, ông trình bày, một năm sau khi cha chết (năm 2006), ông và các đồng thừa kế di sản của cha (150 lượng vàng và 60 triệu đồng) đã mở thừa kế. Trên cơ sở này, ngày 26-6-2007, phía ông đã nộp đơn yêu cầu được THA, có biên nhận của Chi cục THA dân sự quận Gò Vấp do vẫn nằm trong thời hạn yêu cầu THA. Ba tháng sau, chấp hành viên gửi giấy mời ông cùng các đồng thừa kế đến làm việc, đề nghị ông bổ sung thủ tục hồ sơ để THA. Ít lâu sau, ông được nhận quyết định THA theo yêu cầu của đương sự. Bất ngờ, cuối năm 2008, ông lại bị cơ quan THA thu hồi quyết định này. Đây là điều hết sức khó hiểu, gây thiệt hại cho phía ông.

            Ông Ấn cho rằng tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét đầy đủ các chứng cứ của phía ông (đặc biệt là tờ biên nhận nhận đơn yêu cầu THA trong thời hạn) nên tuyên án không phù hợp.

            5. Báo Người đưa tin có bài Tập sự nhưng không phải tập sự. Bài báo phản ánh: Luật Luật sư sửa đổi bổ sung năm 2012 đã nhận được những đánh giá tích cực từ các chuyên gia cũng như sự đồng tình của đông đảo đội ngũ Luật sư.

            Trong đó nhiều người rất quan tâm đến những quy định đối với người tập sự hành nghề Luật sư.

            So với quy định cũ, Luật Luật sư năm 2012 đã có những bước tiến mới. Đặc biệt là việc quy định người tập sự hành nghề Luật sư được “tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo sự phân công của luật sư hướng dẫn khi được khách hàng đồng ý. Rút ngắn thời gian tập sự từ 18 tháng xuống còn 12 tháng”.

            Tuy nhiên, việc quy định các quyền và nghĩa vụ của người tập sự hành nghề Luật sư theo Luật Luật sư năm 2012 vẫn cho thấy các nhà làm luật còn giới hạn khả năng tập sự hành nghề của người tập sự hành nghề Luật sư. Nhiều ý kiến cho rằng người tập sự hành nghề Luật sư hiện nay mới chỉ như đang “cưỡi ngựa xem hoa”.

            Hiện nay, Luật Luật sư năm 2012 không cho phép người tập sự hành nghề Luật sư được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng tại phiên tòa, không được ký văn bản tư vấn pháp luật. Điều này dẫn đến trong quá trình tập sự người tập sự hành nghề Luật sư khó hình thành được các kỹ năng của một Luật sư.

            Hơn nữa, những kiến thức được học tập tại Học viện tư pháp, nơi đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ Luật sư sẽ không có cơ hội thực hành và dễ bị mai một. Những người tập sự hành nghề Luật sư đều được thực hành việc tranh tụng, bào chữa… thông qua các phiên tòa giả định tại cơ sở đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ Luật sư, thế nhưng khi tiến hành tập sự các kỹ năng này lại không có cơ hội để rèn luyện, thực hành cũng có thể coi là một thiệt thòi cho người tập sự.

            Mặt khác trên thực tế, tại các Văn phòng Luật sư, công ty Luật, người tập sự hành nghề Luật sư ít được va vấp vào các công việc do Luật sư hướng dẫn không có điều kiện hướng dẫn thường xuyên, hoặc thiếu tin tưởng vào kinh nghiệm cũng như khả năng của người tập sự.

            Về vấn đề này Luật Luật sư năm 2012 cũng chưa quy định rõ trách nhiệm cụ thể của Luật sư hướng dẫn đối với việc phân công, giúp đỡ Luật sư tập sự, trong trường hợp suốt thời gian tập sự, người tập sự hành nghề luật sư không nhận được bất kỳ vụ việc nào để được cùng thực hành, cùng làm việc thì trách nhiệm của Luật sư hướng dẫn đến đâu. Bởi lẽ quá trình tập sự hành nghề của người tập sự còn liên quan đến việc báo cáo thực tập và thi kiểm tra hết tập sự. Nếu người tập sự hành nghề Luật sư không được va chạm, không được thực hiện cùng Luật sư hướng dẫn một vụ việc nào, hoặc có nhưng quá ít thì liệu người tập sự đó có thể vượt qua được kỳ kiểm tra?

            Thiết nghĩ để nâng cao hơn nữa chất lượng quá trình tập sự của người tập sự hành nghề Luật sư cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Tạo điều kiện tốt hơn nữa cho người tập sự hành nghề Luật sư được rèn luyện, thực hành. Có như vậy mới đúng bản chất của việc tập sự hành nghề chứ không phải là tập sự theo cách “đánh trống ghi tên”.

            6. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Một vụ án “siêu lạ” ở thành phố Hạ Long. Bài báo phản ánh: Vụ tranh chấp liên quan đến khu dân cư phía Đông đường lên nhà thờ có vị trí đắc địa ở mặt phố Trần Hưng Đạo gần ngã tư Cột Đồng Hồ, TP Hạ Long. Hiện trạng nơi đây là khu đất với 15 căn nhà liền kề mặt phố đang xây dựng dở dang. Để có được khu đất này, người ta đã phải đầu tư rất lớn (theo tổng hợp dự toán ban đầu thì giá trị thi công là hơn 37 tỷ đồng) để bạt núi, đổ cả trăm m3 bê tông giằng phía sau khu dân cư trong nhiều năm trời và khi mặt bằng ở trên núi cao giá trị không đáng kể được hạ cốt nền xuống thành “đất vàng” ở mặt phố Trần Hưng Đạo thì việc bội ước, đòi lại đất đã xảy ra…

            Hơn 3 năm trước, được sự chấp thuận và hướng dẫn của UBND tỉnh Quảng Ninh, 5 hộ dân tại tổ 48 khu 3 phường Bạch Đằng, TP Hạ Long đã ủy quyền cho ông Nguyễn Tuấn Việt thay mặt họ triển khai các công việc liên quan đến việc lập dự án bạt núi, để tạo lập một khu dân cư ở mặt phố Trần Hưng Đạo. Các hộ dân lập hợp đồng ủy quyền cho ông Nguyễn Tuấn Việt (ở tổ 7 khu 4 phường Yết Kiêu, TP Hạ Long) thay mặt họ thực hiện tất cả các giao dịch liên quan với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như chịu toàn bộ kinh phí thực hiện dự án.

            Trong đó, hộ bà Phùng Thị Thiểm bàn giao diện tích ít nhất 107,8m2. Các hộ dân cam kết trong Hợp đồng ủy quyền ký ngày 12-11-2010: “Mỗi hộ gia đình thống nhất chỉ nhận duy nhất 1 thửa đất (tối đa 48m2 theo thiết kế được UBND tỉnh phê duyệt) kèm theo 1 Giấy chứng nhận QSD đất sau khi đã phân chia ô, thửa theo thỏa thuận”. Tất nhiên, lúc dự án hoàn thành thì đất các hộ dân được nhận không còn là đất trên núi mà là đất ở mặt tiền con phố trung tâm TP Hạ Long, có giá trị cao ngất ngưởng. Thù lao của ông Việt-người bỏ công sức và kinh phí thực hiện dự án, là phần đất còn lại sau khi giao  lại 5 thửa đất cho 5 hộ dân. Việc ủy quyền được lập thành hợp đồng có chứng thực của Phòng Tư pháp TP Hạ Long. “Thực hiện được dự án này thì ông Việt có lợi và các hộ dân chúng tôi cũng có lợi lớn, bởi trước kia nhà đất của chúng tôi ở trên núi giá trị không đáng kể, nay thành đất mặt phố dù diện tích nhỏ hơn đất cũ nhưng giá trị thì tăng gấp 14-15 lần…”, đại diện một trong các hộdân cho biết.

            Thế nhưng, khi mặt bằng đất cũ không còn, núi đã bạt, bờ kè bê tông vô cùng tốn kém đã xong, hình thành một dãy nhà mặt phố thì 1 trong 5 hộ dân là bà Phùng Thị Thiểm lại muốn bội ước. Bà Thiểm không chịu lấy 1 thửa đất như cam kết mà đòi tới 4 thửa đất, có tổng diện tích thậm chí vượt xa diện tích ở cũ của hộ này. Đó là sự đòi hỏi vô lý và thực tế là vi phạm thỏa thuận ủy quyền, khiến ngay cả 4 hộ dân còn lại cũng vô cùng bất bình. Thế nhưng, lạ thay đòi hòi vô lý này lại được một số cán bộ công quyền và TAND TP Hạ Long ủng hộ…(!?).

            Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự diễn ra ngày 13-3-2013, HĐXX của TAND TP Hạ Long đã tuyên hủy Hợp đồng ủy quyền giữa các hộ dân và ông Nguyễn Tuấn Việt, đồng thời tuyên chấp thuận yêu cầu của bà Thiểm đòi được hưởng 4 thửa đất của dự án có tổng diện tích lớn hơn cả diện tích bà Thiểm giao lúc đầu. Một trong những cái “cớ” quan trọng nhất mà tòa vin vào là bản Thông báo của Phòng Tư pháp TP Hạ Long về việc hủy lời chứng trong Hợp đồng ủy quyền ngày 12-11-2010 (với lý do bà Thiểm ký Hợp đồng ủy quyền mà không cósự chứng kiến của cán bộ Phòng Tư pháp). Việc này cho thấy, ông Trưởng phòng Tư pháp TP Hạ Long Đặng Đình Thúy đã saiphạm lại nối tiếp sai phạm khi ngang nhiên tự quyết định hủy lời chứng do chính ông này thực hiện ở Hợp đồng số 74 Quyển số 10 ngày 12-11-2010.

            Để tạo lý do cho việc này, bà Hà Thị Huế, cán bộ Phòng Tư pháp đã làm “Bản tường trình” trong đó cho rằng ông Việt đã lừa dối bà Huế và cả Trưởng phòng Tư pháp để hai vị này làm lời chứng, vào sổ, đóng dấu. Tuy nhiên đây chỉ là giải thích từ một phía bà Huế, còn Hợp đồng ủy quyền do ông Thúy ký chứng thực đã ghi lời chứng rất rõ rằng: “Sau khi kiểm tra, các bên có đầy đủ giấy tờ hợp lệ, không có biểu hiện không đủ hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự tại thời điểm chứng thực; nội dung hợp đồng ủy quyền do các bên tự soạn thảo không trái pháp luật và đạo đức xã hội; các bên đọc lại hợp đồng ủy quyền và đã đồng ý toàn bộ nội dung và ký trước mặt tôi”. Sự thể quá rõ, giấy trắng- mực đen-dấu đỏ vậy mà nay ôngThúy lại phủ nhận lời chứng của chính mình một cách đầy khó hiểu, khiến người ta không khỏitưởng tượng về những điều không hay...

            Điều cũng rất đáng lưu ý là ông Đặng Đình Thúy ký chứng thực giao dịch ủy quyền này khi ông hoàn toàn không có thẩm quyền, bởi thực hiện Luật Công chứng, ngày 14-12-2008 Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 4029/QĐ-UBND về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng đối với hợp đồng, giao dịch trên địa bàn tỉnh. Theo đó, Phòng Tư pháp TPHạLong không còn thẩm quyền ký công chứng loại Hợp đồng ủy quyền này.

            Sự việc cho thấy, ngay từ đầu, các bên giao kết hợp đồng không hề gian dối và bà Thiểm cũng không hề bị thiệt hại gì mà hoàn toàn ngược lại. Chỉ có ông Trưởng phòng Tư pháp TP Hạ Long biết sai, biết mình không có thẩm quyền mà vẫn ký chứng thực.

            Theo bước Phòng Tư pháp TP Hạ Long, nay HĐXX sơ thẩm TANDTPHạ Long cũng đã tuyên bố Hợp đồng ủy quyền có yếu tố lừa dối. Việc lừa dối ở đây nếu có, thì phần lỗi lớn nhất phải thuộc về ông Trưởng phòng Tư pháp TP Hạ Long Đặng Đình Thúy khi làm lời chứng và ký vào Hợp đồng ủy quyền này, làm cơ sở cho việc triển khai dự án. Hậu quả đến nay là 4 lô đất trị giá hàng chục tỷ đồng đã được HĐXX sơ thẩm ưu ái “đền” cho bà Thiểm gây thiệt hại lớn cho ông Nguyễn Tuấn Việt, là người bỏ công sức, chịu chi phí đầu tư rất lớn để thực hiện dự án. Cái sai của Phòng Tư pháp TP Hạ Long đem lại hậu quả lớn như vậy cho thấy rất rõ dấu hiệu phạm pháp hình sự, cần được các cơ quan pháp luật vào cuộc xem xét, truy cứu trách nhiệm.

            7. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Làm ba giấy tùy thân: 11 ngày. Bài báo đưa tin: Tại TP.HCM, người dân chỉ cần một lần liên hệ với UBND cấp xã là được giải quyết cả ba thủ tục: hộ tịch - bảo hiểm y tế - hộ khẩu.

            Căn cứ theo Quyết định số 07 ngày 30-1-2013 của UBND TP.HCM, Sở Tư pháp TP.HCM vừa triển khai thực hiện quy chế một cửa liên thông ba thủ tục gồm hộ tịch - bảo hiểm y tế - hộ khẩu. Từ nay, người dân chỉ cần nộp hồ sơ tại UBND phường, xã, thị trấn (gọi tắt là UBND cấp xã) sẽ được giải quyết cả ba thủ tục này chỉ trong 11 ngày.

            Quy chế trên áp dụng cho trẻ em dưới sáu tuổi có cha hoặc mẹ hay người nuôi dưỡng có hộ khẩu tại TP.HCM. Trường hợp có cha hoặc mẹ hay người nuôi dưỡng tạm trú tại TP.HCM thì trẻ chỉ được giải quyết hai thủ tục là đăng ký khai sinh và cấp thẻ bảo hiểm y tế (thẻ BHYT).

            Ngoài ra, người có thân nhân (có hộ khẩu tại TP.HCM) qua đời cũng không cần đến UBND cấp xã đăng ký khai tử rồi mới đến công an quận, huyện làm thủ tục xóa hộ khẩu như trước đây nữa. Thay vào đó, họ chỉ cần đến UBND cấp xã là được giải quyết cả hai thủ tục: đăng ký khai tử và xóa hộ khẩu đối với người chết.

            UBND cấp xã miễn lệ phí khi cấp giấy khai sinh (bản chính) và thẻ BHYT cho trẻ em dưới sáu tuổi. Nếu đăng ký bản sao giấy khai sinh cho trẻ thì người dân nộp lệ phí 2.000 đồng/giấy. Riêng việc nhập hộ khẩu cho trẻ thì phải nộp lệ phí 10.000 đồng/trường hợp.

            Nếu như trước đây người dân làm cả ba thủ tục mất tới 26 ngày thì nay chỉ còn 11 ngày (giảm 15 ngày). Ngoài việc rút ngắn được thời gian, người dân còn đỡ tốn công đi lại nhiều lần và qua nhiều cơ quan. (Theo thủ tục cũ, đầu tiên người dân đến UBND cấp xã đăng ký khai sinh; sau đó qua công an quận, huyện nhập hộ khẩu; sau nữa quay lại UBND cấp xã nhận thẻ BHYT).

            II- THÔNG TIN KHÁC

            1. Báo Lao động có bài Xác định lại giới tính: Tháng 5 tới, mọi cơ sở pháp lý sẽ thuận lợi. Bài báo đưa tin: Đến tháng 5 tới đây sẽ có 3 bệnh viện được Bộ Y tế xem xét cho phép thực hiện việc can thiệp y học để xác định lại giới tính. Khi đó, sẽ không còn khó khăn nào đối với những người có nhu cầu xác định lại giới tính, kể cả những thủ tục về hộ tịch, giấy tờ tùy thân - ông Nguyễn Huy Quang – Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết.

            - Pháp luật nghiêm cấm can thiệp y học các trường hợp đã hoàn thiện về giới tính, nam đã là nam, nữ là nữ. Nhưng với những người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính, hoặc giới tính chưa được định hình chưa chính xác thì Luật cho phép xác định lại giới tính. Đó là nhu cầu có thật trong xã hội, bởi theo thống kê, trong 2.000 đứa trẻ sinh ra thì có 1 đứa trẻ có bộ phận sinh dục không phù hợp với bộ nhiễm sắc thể. Và cứ 11.000 người thì có 1 người mắc bệnh về giới tính, nghĩa là có khuyết tật về giới tính hoặc giới tính không rõ ràng. Các khuyết tật này xuất phát từ đột biến hoặc khiếm khuyết gene chứ không phải là yếu tố tâm lý thông thường do xã hội tác động.

            Về xã hội, những đứa trẻ như thế khi sinh ra và lớn lên đã chịu nhiều thiệt thòi nên việc can thiệp về y học trả lại giới tính thực là rất cần thiết. Vì thế, xuất phát từ quyền nhân thân quy định trong Bộ Luật Dân sự, Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư  29/2010/TT-BYT hướng dẫn thực hiện kỹ thuật xác định lại giới tính.

            Theo đó, Bộ Y tế chỉ định 3 cơ sở y tế là BV Nhi T.Ư, BV Việt Đức và BV Nhi đồng 2 chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực để đến tháng 5 tới đây sẽ xem xét cho phép được thực hiện kỹ thuật xác định lại giới tính. Bất cứ ai, ở độ tuổi nào có nhu cầu xác định lại giới tính thì có thể đến 1 trong 3 cơ sở này. Sau khi có giấy chứng nhận y tế đã xác định lại giới tính, họ có thể đến UBND quận/huyện để thay đổi lại tên và giới tính trong hộ khẩu. Từ đó tiếp tục làm các chuyển đổi trong giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, hộ chiếu và các giấy tờ khác. Sau đó, họ hoàn toàn có thể kết hôn, sinh con và yêu cầu sự trợ giúp về sinh sản nếu có thể. Toàn bộ cơ sở pháp lý như vậy là đã thuận lợi. Trường hợp anh Phạm Văn Hiệp không thuận là do đã không xin giấy chứng nhận ở cơ sở y tế được phép thực hiện kỹ thuật này.

            Vì sao chỉ có 3 nơi được thực hiện kỹ thuật xác định giới tính, lại đặt ở những nơi rất quá tải, trong khi mà nhu cầu trên thực tế lại không ít?

            -  Các cơ sở này phải có cơ sở vật chất kỹ thuật, con người đảm nhận được những kỹ thuật chuyên sâu, đủ điều kiện theo quy định của Luật thì Bộ Y tế mới cho phép. Hiện nay, khó khăn chủ yếu là hạn chế về nhân lực, không nhiều nơi làm được nên Bộ Y tế tạm thời chỉ định 3 cơ sở này.

            Tỉ lệ dân số có những khiếm khuyết hoặc không rõ ràng về giới tính không ít. Vậy theo ông, đã đến lúc cần có sàng lọc những bệnh về giới tính này trước sinh và sau sinh như một số dị tật bẩm sinh đang được sàng lọc như hiện nay?

            - Theo tôi là cần thiết, và một số quốc gia trên thế giới đã làm thường quy, mục đích là để có những đứa trẻ hoàn thiện về thể chất khi ra đời. Thế nhưng hệ thống sàng lọc trước và sau sinh ở VN còn chưa hoàn thiện và mới làm được ở một số nơi nên vấn đề sàng lọc liên quan đến những bệnh giới tính không rõ ràng chắc phải một thời gian nữa mới có thể thực hiện được.

            2. Báo Đất Việt có bài Báo cáo Chính phủ vì mâu thuẫn phạt xe không chính chủ?. Bài báo phản ánh: Mặc dù Bộ GTVT chưa đồng ý với thời gian xử phạt xe không chính chủ nhưng đại diện Bộ Công an khẳng định vẫn thực hiện và ra Thông tư 11 để triển khai. Theo đó, từ 15/4 xe máy, ô tô mua bán không sang tên đổi chủ sẽ bị xử phạt.

            Thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, Cục trưởng Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt (Bộ Công an) khẳng định, Thông tư 11 đã nêu rất rõ, bắt đầu từ ngày 15/4, CSGT vẫn sẽ áp dụng xử phạt xe không không sang tên, đổi chủ sau 30 ngày theo quy định.

            "Quan điểm của Bộ Công an là vẫn sẽ xử phạt nghiêm những xe không sang tên đổi chủ", thiếu tướng Tuyên cho hay. Tuy nhiên, đối với phương tiện đang lưu thông trên đường, CSGT và các lực lượng làm nhiệm vụ trên đường không được dừng xe để kiểm tra, xử lý hành vi không chuyển quyền sở hữu.

            Thông tư 11 còn quy định, người đi ôtô, xe máy phải có ít nhất 3 loại giấy tờ bắt buộc, gồm: đăng ký, giấy phép lái xe, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (dành riêng cho ôtô)...

            Riêng các trường hợp vi phạm giao thông, đi chuyển đổi quyền sử dụng và để xảy ra tai nạn, chủ phương tiện còn phải có thêm giấy chứng nhận xe chính chủ.

            Hiện Thông tư đã được phổ biến đến công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 15/4 sẽ được CSGT tại các địa phương áp dụng.

            Chiều 11/3, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng đã yêu cầu chưa đưa quy định xử phạt xe không chính chủ vào dự thảo nghị định lần 3 bởi "trong quá trình thực hiện cho thấy tính khả thi không cao, có nguy cơ gây phiền hà cho người dân nên đề nghị không đưa vào dự thảo nghị định. Khi các cơ quan nghiên cứu về tính khả thi của các biện pháp xác minh nguồn gốc xe tốt hơn thì sẽ đưa quy định này vào nghị định", Bộ trưởng Thăng cho biết.

            Bộ trưởng Thăng phân tích, xác định nguồn gốc một chiếc xe chính chủ không dễ, dù Bộ công an không yêu cầu chứng minh nguồn gốc nhưng người thực thi vẫn có thể gây phiền hà cho dân.

            Vì thế, khi việc xác minh xe chính chủ chưa thật thuận lợi thì chưa nên đưa quy định này vào để xử phạt.

            “Nếu các Bộ vẫn không đi đến đồng thuận được sẽ báo cáo Chính phủ cho biểu quyết” - ông Thăng kiên quyết.

            Trong khi sáng ngày 14/3, 4 Bộ vừa quyết định ngừng ban hành thông tư mà theo đó sẽ phạt người đội mũ bảo hiểm "dỏm" thì ngay trong chiều cùng ngày vị quan chức Ủy ban An toàn giao thông quốc gia lại tuyên bố sẽ xử phạt người đội mũ bảo hiểm không có đủ 3 lớp.

           



File đính kèm