I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo Hà Nội mới có bài Về Lời nói đầu, Vai trò lãnh đạo của Đảng và về Công đoàn. Bài báo phản ánh: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có tính ổn định lâu dài. Kỹ thuật lập hiến của Dự thảo được trình bày theo hướng: Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc, nhìn chung bước đầu đạt được sự cô đọng, súc tích, rõ ràng và cũng thực sự cần thiết trong tình hình hiện nay. Xin góp thêm một vài điểm nhỏ.
Phần Lời nói đầu còn dài, có đoạn không cần thiết nhưng lại có những ý cần bổ sung. Ở Lời nói đầu, cần nói rõ hơn lý do phải sửa đổi Hiến pháp năm 1992; còn thiếu truyền thống yêu nước ở khổ 1; cuối khổ 4 chỉ diễn đạt thực hiện công bằng xã hội là chưa đủ, nhưng lại lặp một số ý ở khổ 5. Lời nói đầu trong dự thảo hiện tại có 5 khổ, nên chăng cô đọng thành 4 khổ. Cụ thể như sau:
- Khổ thứ nhất nên trình bày là: Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam.
- Khổ 4 và khổ 5 diễn đạt lại thành một khổ như sau: Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hiến pháp này khẳng định tiếp tục phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, kế thừa sáng tạo các Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 còn phù hợp, thực hiện mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, xây dựng nước Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã hội đủ các tiền đề và điều kiện để làm sâu sắc thêm vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội trong Hiến pháp đã trở thành nguyên tắc khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
Điều 4 (Dự thảo) không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua tôn chỉ, lý tưởng, sứ mệnh của Đảng mà còn khẳng định, nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực, sức mạnh của Đảng là ở nhân dân và Đảng hoạt động không có mục đích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Các tổ chức Đảng và đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là công bộc của nhân dân. Đảng vì dân để dân tin Đảng, và tự nguyện, tôn vinh Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhân dân “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” chính là đang đưa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng vào hiện thực cuộc sống. Việc luật hóa - xây dựng luật về sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng chính là xác định rõ mối quan hệ về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội, xác định rõ về thể chế, thiết chế, cơ chế vận hành để một Đảng duy nhất cầm quyền, độc quyền lãnh đạo nhưng không rơi vào độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm khi cấp ủy, đảng viên làm sai.
Mặt khác, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Tuy nhiên, thực tiễn đất nước vừa qua, có nhiều quyết định rất đúng nhưng tổ chức thực hiện quyết định đó lại là khâu yếu. Do vậy, việc ra được các quyết định đúng là quan trọng nhưng việc tổ chức thực hiện các quyết định đúng, đưa những quyết định đúng vào cuộc sống còn quan trọng hơn. Do vậy, nếu diễn đạt Đảng chỉ “chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” chưa đủ làm nổi bật và đúng tầm vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội.
Từ nhận thức trên, kiến nghị trình bày Điều 4 như sau:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước pháp luật về sự lãnh đạo của mình.
3. Các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Vai trò lãnh đạo của Đảng do luật định.
Hiện nay, ở Việt Nam, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, công nhân lao động ở khu vực ngoài quốc doanh ngày càng chiếm tỷ lệ cao. Do vậy, trong Điều 10, Công đoàn ngoài bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, chúng tôi kiến nghị nên bổ sung thêm, đồng thời cũng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động; xây dựng và phát triển doanh nghiệp bền vững để giới chủ yên tâm lập tổ chức Công đoàn đồng hành cùng doanh nghiệp.
Vì vậy, Điều 10 nên trình bày như sau:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và của người sử dụng lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và phát triển bền vững doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Báo VietnamNet có bài 3 câu hỏi về kiểm soát quyền lực. Bài báo phản ánh: Đọc bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có thể thấy ánh sáng của một tinh thần lập hiến hiện đại với những quy định về quyền con người và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhưng, thiết nghĩ, để những tia sáng ấy trở thành một vầng sáng rực rỡ, soi rọi vào quảng đại nhân dân, tạo động lực để đất nước phát triển hùng cường, thì dự thảo cần được nghiên cứu chỉnh sửa, bổ sung thêm, trước hết là ở các quy định về “kiểm soát” quyền lực. Nếu không, ý tưởng tốt tươi tại điều 2 dự thảo“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” sẽ có nguy cơ trở thành một quy định treo, chỉ có tác dụng làm đẹp cho bản hiến văn.
Hiến pháp Việt Nam từ năm 1980 đến nay quy định về mối tương quan giữa “Đảng”, “Nhà nước” và “nhân dân”. Quyền lãnh đạo của ĐCS VN được hiến định tại điều 4. Pháp luật, chính sách của Nhà nước phần lớn là để thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Nhiều năm qua, vấn đề “đổi mới sự lãnh đạo của Đảng” đã được đặt ra có tính cấp thiết trong nội bộ Đảng và cả ngoài xã hội. Đảng cũng đang đứng trước “nguy cơ tồn vong” bởi “một bộ phận không nhỏ” đảng viên suy thoái, biến chất. Vậy nên, một trong những vấn đề đặt ra có tính khoa học và thực tiễn là: quyền lực của Đảng, hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên phải được kiểm soát, giám sát như thế nào? Thiết nghĩ, vấn đề này cần được hiến định rõ ràng, tương thích với điều 4 về sự lãnh đạo của Đảng đối với “Nhà nước và xã hội”.
Khoản 2 điều 4 trong dự thảo đã tiến thêm một bước so với quy định hiện hành trong Hiến pháp 1992 khi viết: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Tôi hoàn toàn đồng ý với quy định Đảng “chịu sự giám sát” và “chịu trách nhiệm” trước nhân dân. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ, bởi chưa trả lời được câu hỏi “Nhân dân giám sát như thế nào? Đảng chịu trách nhiệm gì và chịu trách nhiệm đến mức nào trước nhân dân?”. Như vậy, cần một cơ chế đảm bảo về mặt hiến pháp và luật để nhân dân giám sát và Đảng chịu trách nhiệm.
Tôi “bỏ phiếu” cho ý kiến “cần phải luật hóa sự lãnh đạo của Đảng”. Đọc điều 4 trong dự thảo, tôi xin góp ý nên quy định như sau: “1. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2.Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Hoạt động của Đảng do luật định”.
Tôi cho rằng, chỉ khi có một đạo luật về sự lãnh đạo của Đảng với nội dung tiến bộ, phù hợp, mới tránh được nguy cơ Đảng “lấn sân” chính quyền, tránh được tình trạng cá nhân hoặc nhóm lợi ích lợi dụng quyền lực của Đảng hoặc nhân danh Đảng để lộng quyền, lạm quyền để trục lợi và can thiệp vô nguyên tắc vào hoạt động của bộ máy Nhà nước. Giám sát tốt hoạt động của Đảng thì mới có cơ hội loại trừ “một bộ phận không nhỏ” đảng viên thoái hóa, biến chất, tức là tránh được nguy cơ “tồn vong của chế độ”.
Điều 74 dự thảo viết: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”.
Quy định như vậy thì mâu thuẫn với điều 2 dự thảo là quyền lực Nhà nước “có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, bởi một khi Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất (không ai cao hơn) và thực hiện quyền giám sát tối cao thì các cơ quan hành pháp và tư pháp không thể có quyền “kiểm soát” đối với Quốc hội. Đây là một trong những vấn đề cần được nghiêm túc đặt ra, bởi nguy cơ lạm quyền và tham nhũng chính sách trên thực tế đã được cảnh báo và phát hiện ở nghị viện nhiều nước.
Có người trả lời rằng: Nhân dân, cụ thể là cử tri - những người bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội - sẽ giám sát Quốc hội. Đây chỉ là cách trả lời ngụy biện, lạc quan tếu. Xin thưa, quyền lực chỉ có thể bị giám sát bởi các chế định quyền lực khác. Cử tri chỉ có thể giám sát (có mức độ) đối với từng đại biểu Quốc hội, chứ không thể giám sát có hiệu quả (thông qua những cảnh báo, chế tài) đối với Quốc hội.
Quy định tại điều 74 dự thảo như đã nêu trên cũng mâu thuẫn với nguyên tắc tối thượng tại điều 2 dự thảo là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Viết theo điều 74 thì có thể hiểu là quyền lực là của dân nhưng nhân dân đã ủy thác tất cả quyền lực của mình cho Quốc hội mà không giữ lại quyền nào, ngay cả quyền quan trọng nhất là quyền phúc quyết Hiến pháp thì cũng chỉ được thực hiện theo quyết định của Quốc hội (bởi khoản 4 điều 124 dự thảo viết “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”). Trao hết quyền cho Quốc hội thì “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp…” như quy định tại điều 6 dự thảo bằng cách nào?
Thông thường, ở nhiều nước, nguy cơ lạm quyền của Quốc hội sẽ được kiểm soát mạnh nhất bởi các chế định quyền lực độc lập khác là Tòa án Hiến pháp và nguyên thủ quốc gia. Một Tòa án Hiến pháp độc lập có chức năng phán xét để hủy bỏ những đạo luật vi hiến cùng với một nguyên thủ quốc gia có quyền phủ quyết (hoặc đề nghị Quốc hội xem xét lại một đạo luật đã được thông qua) sẽ là những chế định kiểm soát hữu hiệu hoạt động của Quốc hội, tránh những quyết định không có lợi cho dân từ cơ quan lập pháp.
Thiết nghĩ, đây là một trong những nguyên tắc cần được nghiên cứu, tiếp thu để quy định vào dự thảo. Theo dõi các hội nghị, hội thảo trong thời gian qua, tôi thấy quy định tại điều 120 dự thảo rằng Hội đồng Hiến pháp chỉ có quyền “kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp” đã bị đại đa số chuyên gia không đồng tình, bởi nó trái với nguyên tắc kiểm soát quyền lực phổ biến trên thế giới.
Điều 99 dự thảo viết: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước”.
Nhiều người nghiên cứu pháp luật bày tỏ sự ngạc nhiên trước quy định này, bởi viết như vậy thì không rõ được Chính phủ là “là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất..., là cơ quan chấp hành của Quốc hội” hay là cơ quan “thực hiện quyền hành pháp”. Bởi một Chính phủ hành chính sẽ rất khác một Chính phủ hành pháp.
Chính phủ hành chính là một Chính phủ thừa hành, chấp hành một cách thụ động các quyết định của Quốc hội. Còn Chính phủ hành pháp là Chính phủ chủ động, linh động trong điều hành kinh tế - xã hội, chủ động đề xuất chính sách, pháp luật và chịu trách nhiệm cao nhất với các đề xuất đó. Người ta nói, sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào tính năng động và chịu trách nhiệm của Chính phủ. Nếu Quốc hội đã được trao quyền lập pháp, thì Chính phủ phải được trao quyền hành pháp thì mới đảm bảo điều kiện “kiểm soát lẫn nhau”, tức quyền lực hành pháp kiểm soát ngược lại quyền lực lập pháp.
Ví dụ, với tư cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ có quyền chủ động đề xuất Quốc hội thông qua một đạo luật có nội dung “A” để phục vụ công tác quản lý, nếu Quốc hội không chấp thuận dự luật đó có nội dung “A” mà lại muốn dự luật có nội dung “B” thì Chính phủ phải có quyền bảo lưu quan điểm của mình, tức là có quyền rút lại dự luật.
Nhưng nếu chỉ là cơ quan hành chính, cơ quan chấp hành của Quốc hội, thì Chính phủ muốn “A” nhưng Quốc hội quyết “B” thì Chính phủ vẫn phải tuân thủ (điều này có thể dẫn đến hệ quả: Chính phủ không thể thực hiện nội dung “B” vì Chính phủ đã tính toán là “A” mới đảm bảo khả thi). Chính phủ đề xuất “A”, Quốc hội quyết định “B”, nếu Chính phủ không thực hiện được “B” mà bị Quốc hội chế tài thì vô lý. Thực tế hiện nay cho thấy, không ít cái sai, thiếu thực tế, không khả thi rất khó tìm được “địa chỉ” trách nhiệm, bởi không rõ vai trò hành chính và hành pháp của Chính phủ.
Rõ ràng, một Chính phủ hành pháp sẽ tốt hơn cho việc đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực, tạo ra cơ chế “dám làm dám chịu” và trách nhiệm sẽ rõ ràng hơn.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Dùng giấy tờ giả lừa đảo, phạm tội gì?. Bài báo phản ánh: Khi xử lý, các cơ quan tố tụng thiếu thống nhất về tội danh của người vi phạm: Có ý kiến cho rằng chỉ có thể xử lý hình sự người vi phạm về một tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng phải xử lý về cả hai tội…
Theo Điều 139 BLHS, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối được coi là dùng công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau để lừa được người khác. Nếu phương tiện, công cụ mà người phạm tội sử dụng cấu thành một tội phạm cụ thể thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội. Trường hợp làm giả giấy tờ và nếu hành vi này cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trường hợp này cũng giống trường hợp sử dụng súng quân dụng để giết người thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
Về lý luận, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành vật chất nhưng không vì thế mà cho rằng người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì không cấu thành tội này. Cũng như đối với các tội phạm cấu thành vật chất khác được thực hiện do cố ý, hậu quả chưa xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội. Nếu cho rằng đối với tội cấu thành vật chất, hậu quả chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm, có lẽ BLHS cũng không cần quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nữa.
Nếu người phạm tội mới chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) chưa giao dịch với người bị hại thì trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản này mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 139 BLHS thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu người phạm tội đã chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) đã giao dịch với người bị hại nhưng người bị hại phát hiện, không giao tài sản thì trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phân biệt thuộc khoản nào của Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, tòa sẽ áp dụng thêm Điều 18 BLHS (phạm tội chưa đạt).
Trở lại vụ việc báo nêu, H. mới đến văn phòng công chứng để công chứng giấy tờ giả thì bị phát hiện; H. chưa đưa giấy tờ giả cho ông N. nên với tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, trường hợp của H. là phạm tội chưa đạt (chưa công chứng được). Còn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi của H. ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. H. có ý định chiếm đoạt 200 triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng) nên H. bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
3. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Bộ luật Dân sự cần có qui định về hợp đồng môi giới!. Bài báo phản ánh: Sau hơn 7 năm thực hiện, Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhiều quy định chưa đáp ứng yêu cầu phát triển là những nhận định được đưa ra tại hội thảo góp ý kiến sửa đổi BLDS 2005, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức.
Theo nhiều chuyên gia pháp lý, trong chế định hợp đồng dân sự, nếu tính về số lượng điều, khoản thì những quy định liên quan đến hợp đồng chiếm một số lượng tương đối. Thế nhưng, những qui định này lại “vừa thừa, vừa thiếu”, vấn đề cần điều chỉnh liên quan đến DN không có, những loại hợp đồng DN cần và ngay cả những loại hợp đồng được điều chỉnh không phù hợp với thực tế sản xuất, kinh doanh của DN.
Luật sư Trương Thanh Đức cho rằng, BLDS 2005 quy định về 13 loại hợp đồng dân sự thông dụng, trong khi thực tế còn có hàng chục loại hợp đồng thông dụng khác chưa được đề cập đến hoặc không được chỉ rõ như hợp đồng cung cấp thông tin, hợp đồng trao đổi nhà ở, hợp đồng làm môi giới, hợp đồng đổi công cho nhau… Bên cạnh đó, một số hợp đồng được điều chỉnh trong BLDS 2005 lại trùng lặp với quy định tại một số đạo luật khác, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột, không biết áp dụng theo luật nào. Ví dụ, hợp đồng bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị chi phối bởi Luật Đất đai, hợp đồng về nhà ở được qui định cụ thể bởi Luật Nhà ở… Do đó, LS Đức kiến nghị, cần xem xét việc bổ sung hoặc loại bỏ một số loại hợp đồng trong BLDS.
Đồng tình, TS. Trần Thị Huệ, trường ĐH Luật Hà Nội cho rằng, BLDS 2005 nên bỏ qui định về một số hợp đồng thông dụng như: Hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng về nhà ở, hợp đồng trao đổi tài sản để tránh chồng chéo, vì đã quy định trong các luật chuyên ngành. Bên cạnh đó, BLDS sửa đổi cần bổ sung một số hợp đồng như: Hợp đồng cung cấp thông tin, hợp đồng môi giới, hợp đồng đổi công cho nhau…
Nhiều đại diện DN cũng chỉ ra những mâu thuẫn giữa BLDS 2005 và các luật chuyên ngành. Ví dụ về căn cứ miễn trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, theo BLDS 2005 thì hai căn cứ miễn trách nhiệm là sự kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi phạm (còn lại là trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng) nhưng Luật Thương mại lại quy định bốn căn cứ (các trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng). Hay qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, BLDS 2005 nêu bốn căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường là có hành vi vi phạm, có lỗi của bên vi phạm, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Tuy nhiên, Luật Thương mại lại không quy định yếu tố lỗi là một căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường. Dẫn đến, khi tranh chấp xảy ra, không chỉ các DN mà ngay các cơ quan tố tụng cũng “lúng túng” trong lựa chọn qui định pháp luật để áp dụng.
Theo GS.TS Phan Thị Mơ, Trung tâm trọng tài quốc tế thì ngay trong khái niệm về hợp đồng đã thể hiện sự bất cập. Điều 388 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Bất cập ở chỗ, điều luật này qui định khái niệm hợp đồng gắn với việc “xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, dẫn đến nhiều người cho rằng, qui định về hợp đồng chỉ liên quan đến hợp đồng dân sự, và do đó toàn bộ những quy định tại Mục 7 chương XVII của BLDS 2005 cũng như những quy định về giao kết và thực hiện các loại hợp đồng khác như hợp đồng thương mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng bảo hiểm… không phải là hợp đồng dân sự nên không chịu sự điều chỉnh của BLDS 2005.
Dẫn đến, trong thực tế, rất ít các DN nghiên cứu chế định về hợp đồng dân sự trong BLDS khi giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại mà thường chỉ chú ý tìm hiểu về các quy định của luật chuyên ngành, nhưng luật chuyên ngành hầu như không đưa ra những hướng dẫn về giao kết và thực hiện hợp đồng. Còn ngay tại Điều 1 của BLDS 2005 lại khẳng định, phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 bao gồm các quan hệ dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại... Thế nên GS.TS Phan Thị Mơ cho rằng, nên bỏ hai từ “dân sự” trong khái niệm hợp đồng tại Điều 388.
Nhiều ý kiến cùng cho rằng, tuy BLDS 2005 được coi như một “Bộ Luật chính” để điều chỉnh những quan hệ cơ bản và thiết lập những quy tắc chung nhất và các luật chuyên ngành liên quan khác phải được xây dựng trên nền tảng đó, nhưng giữa BLDS 2005 và một loạt các luật chuyên ngành khác như: Luật Thương mại, Luật Đất đai, Luật Công chứng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao dịch đảm bảo, Luật Nhà ở… lại tồn tại nhiều mâu thuẫn, chồng chéo. Vì vậy, BLDS sửa đổi phải đưa ra được những qui định chung nhất phù hợp thực tiễn để các luật chuyên ngành, trên cơ sở đó quy định về hợp đồng thống nhất, đồng bộ.
4. Báo Tuổi trẻ Online có bài Sinh con thứ 6, xã bắt đóng 5 triệu đồng. Bài báo phản ánh: Chị Nguyễn Thị Xuân (39 tuổi, ở thôn Ba Đồng, xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cho biết vào cuối năm 2010 chị sinh mổ đứa con trai thứ năm tại Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh và quyết định đình sản.
Cuối năm 2012, chị Xuân lại sinh con thứ sáu. Khi con hơn 2 tháng tuổi, chồng chị là anh Nguyễn Công Thành (40 tuổi) đến xã làm giấy khai sinh nhưng không được vì anh chị không đóng tiền theo quy định của xã.
Ông Trần Đình Thành, chủ tịch UBND xã Kỳ Phương, cho biết những cặp vợ chồng ở xã này nếu sinh con thứ bốn, thứ năm trở lên không có kế hoạch hóa gia đình xã bắt đóng tiền xây dựng địa phương.
“Trường hợp anh Thành - chị Xuân sinh con thứ sáu phải đóng 5 triệu đồng, không phải phạt. Trước mắt xã yêu cầu vợ chồng họ đóng số tiền này, sau đó chúng tôi sẽ thông qua hội đồng nhân dân, xem xét miễn giảm được không. Vả lại vợ chồng anh Thành đã đình sản vẫn sinh con là lỗi của bệnh viện” - ông Thành nói.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thúy, trưởng khoa sản Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh, cho biết: “Về mặt y học, khi người phụ nữ đình sản vẫn có đến 0,5% trường hợp ống dẫn trứng sẽ tự nối lại và có thai bình thường. Chị Nguyễn Thị Xuân có thể là một trong số đó. Chính tôi là người mổ sinh con thứ sáu cho chị Xuân và thấy ống dẫn trứng của chị đã có vết đình sản”.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Phụ nữ và Đời sống có bài Vụ thất thu 34.000 tỷ: Đà Nẵng sẽ báo cáo Bộ Chính trị. Bài báo phản ánh: Chiều 5/3, đoàn công tác của Thanh tra Chính phủ do Phó tổng thanh tra Nguyễn Đức Hạnh dẫn đầu đã làm việc với UBND TP. Đà Nẵng để thông báo kết luận thanh tra sai phạm đất đai.
Trả lời báo chí ngay sau buổi làm việc, Phó tổng thanh tra Chính phủ Nguyễn Đức Hạnh cho biết, việc công bố này theo chỉ đạo xử lý sai phạm sau kết luận thanh tra, và buổi làm việc thiên về công bố kết luận chứ không thực hiện đối chất.
“Đến nay sau khi kết thúc thanh tra, phía Đà Nẵng vẫn không có bất cứ văn bản có ý kiến nào về cuộc thanh tra này đến Thanh tra Chính phủ. Chỉ có trong quá trình thanh tra, đối tượng thanh tra đã có văn bản giải trình nhưng cơ quan thanh tra không chấp nhận những giải trình này. Sau khi đã có kết luận thanh tra, Đà Nẵng có ý kiến phải đề nghị lên Thủ tướng quyết định”, ông Hạnh nói trên Tuổi trẻ TP. HCM.
Ông Võ Duy Khương, Phó chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng nói rằng, nội dung kết luận của Thanh tra Chính phủ không có gì thay đổi.
“Lãnh đạo thành phố và thường vụ Thành ủy sẽ có giải trình cụ thể báo cáo Bộ Chính trị”, ông Trần Thọ, Phó bí thư Thành ủy Đà Nẵng cho biết trên VNE.
2. Trang CafeLand có bài Sửa Luật Đất đai: Chưa thoát vòng luẩn quẩn. Luật Đất đai 2003 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, trải qua gần 10 năm triển khai thi hành đã bộc lộ rất nhiều bất cập. Sửa Luật Đất đai là một trong những nội dung quan trọng và có tác động rất lớn đến mọi tầng lớp nhân dân.
Mặc dù vậy, dự thảo sửa đổi do Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo chưa đáp ứng được đòi hỏi từ thực tế và mong muốn của người dân. Thực tế cho thấy những tồn tại lớn nhất của dự thảo này xoay quanh 2 vấn đề nóng là giá đền bù thu hồi đất và quy hoạch sử dụng đất.
Luật Đất đai hiện hành quy định giá đền bù “sát giá thị trường” được sửa đổi thành “giá đất do Nhà nước quyết định bảo đảm nguyên tắc phù hợp với giá thị trường”. Thực chất, đây chỉ là việc thay đổi thuật ngữ còn cơ chế xác định giá thị trường ra sao, thế nào là “sát”, thế nào là “phù hợp” thì vẫn còn là ẩn số. Như vậy thì khi thực thi luật làm sao tránh khỏi khiếu kiện vì thiếu sự minh bạch?
Một vấn đề quan trọng nữa là dự thảo lần này chưa có hướng giải quyết thấu đáo cho vấn đề giá đất liên quan trực tiếp đến quy hoạch sử dụng đất, số tầng cao, mật độ công trình xây dựng…Cùng một lô đất, nếu được xây cao 30 tầng thì giá trị thị trường nó phải cao hơn xây 10 tầng. Thực tế, nhiều vụ kiện xảy ra là do người dân bị mất đất nhưng không được hưởng phần giá trị tăng lên do quy hoạch mà lại rơi vào túi chủ đầu tư và ngân sách nhà nước. Điều này tạo nên sự bất công giữa 3 bên: người dân - người có đóng góp vào sự phát triển đô thị bằng chính quyền sử dụng đất của họ - và chủ đầu tư dự án với nhà nước.
Quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng hiện đang có sự chồng chéo và lệch pha gây nên nhiều sự bất cập, thiếu hiệu quả. Trong quy hoạch đô thị đã tính đến yếu tố sử dụng đất, và quy hoạch sử dụng đất phải phục vụ, đáp ứng cho sự phát triển mọi mặt của đô thị. Ngoài ra, quy hoạch đô thị còn thể hiện chi tiết hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, tầng cao, công năng…Việc có thêm quy hoạch sử dụng đất sẽ làm cho công tác quản lý thêm cồng kềnh, rối rắm và kém hiệu quả.
Tuy nhiên, lối tư duy ngược quy hoạch xây dựng phải chạy theo quy hoạch sử dụng đất vẫn đang tồn tại. Câu chuyện “mạnh ai nấy làm” giữa ngành Xây dựng và Tài nguyên Môi trường cũng thể hiện qua việc bên Sở xây dựng thì cấp phép xây dựng dự án nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường lại là bên hoàn công và ra sổ hồng?!
Sự chồng chéo giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị, giữa Luật Đất đai và Luật Quy hoạch đô thị…nếu không được giải quyết tận gốc thì việc sửa đổi Luật khó mang lại hiệu quả thực sự.
Với những nội dung của dự thảo Luật Đất đai, có thể nói dự thảo này chỉ sửa chứ không thể thay đổi được thực trạng thi hành Luật Đất đai những năm qua. Nếu không có sự lắng nghe, thay đổi thực sự từ ban soạn thảo Luật thì việc sửa đổi chỉ luẩn quẩn bình mới rượu cũ.
3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Kiểm soát thu nhập, tài sản người có chức vụ. Bài báo phản ánh: Trả lời Tuổi Trẻ tại buổi làm việc với UBND TP.HCM sáng 5-3 về “công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng năm 2013”, Tổng thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết theo kế hoạch đã đề ra, cuối tháng 3, đầu tháng 4-2013 sẽ thông qua Bộ Chính trị một đề án nhằm kiểm soát thu nhập, tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn.
Theo ông Tranh, việc xây dựng và xem xét đề án trên theo yêu cầu của Bộ Chính trị nhằm đưa ra chủ trương của Đảng về kiểm soát thu nhập, tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn.
Đây là đề án do Thanh tra Chính phủ chủ trì xây dựng, cùng phối hợp với các bộ, ngành để hoàn thành, trình Chính phủ và Bộ Chính trị theo tiến độ đã vạch ra. Ngoài ra, thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) nên tất cả các giải pháp phòng ngừa đều phải được thực hiện, trong đó có đề án nói trên.