I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo VOV Online có bài Hiến pháp sửa đổi và vấn đề “giới tính thứ ba”. Bài báo phản ánh: Theo một số chuyên gia, vấn đề cộng đồng người đồng tính cần được bảo vệ quyền lợi dưới khía cạnh pháp lý
Đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, TS Phạm Bá Khoa, Giám đốc Bảo tàng Tuổi trẻ Việt Nam và đa số ý kiến nhà khoa học, các chuyên gia luật đều cho rằng, Bản sửa đổi năm 2013 của Hiến pháp năm 1992 được chuẩn bị khá công phu, tiến bộ hơn Hiến pháp hiện hành rất nhiều. Dự thảo Hiến pháp đã có bước đột phá về tư duy của Nhà nước, làm rõ hơn về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Dự thảo cũng khẳng định tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Theo TS Phạm Bá Khoa “Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời, dự thảo cũng tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”.
Còn TS Đỗ Minh Phượng, trường Đại học Luật thì cho rằng, trong dự thảo Hiến pháp đặc biệt quan tâm đến việc sửa đổi, bổ sung các qui định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bộ máy nhà nước và các vấn đề khác... Điều đó sẽ dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung mang tính toàn diện, làm cơ sở cho việc sửa đổi các văn bản luật khác.
Cùng quan điểm với nhiều chuyên gia, nhà khoa học, Thạc sỹ Trần Tuyết Nhung, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam cũng cho rằng, Dự thảo Hiến pháp mới đã bổ sung những quy định về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền tự do, dân chủ của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Theo Thạc sỹ Trần Tuyết Nhung, Dự thảo Hiến pháp đã xác lập được cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nội dung này được thể hiện rõ trong Điều 2 của dự thảo Hiến pháp: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”: “Thực chất 3 quyền này, đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổ, bổ sung năm 2001, nhưng chưa quy định rõ cơ quan nào là cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này đã quy định rõ: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan hành pháp và Tòa án là cơ quan tư pháp”.
Thạc sỹ Nhung cũng cho rằng, Dự thảo Hiến pháp đã thể hiện rõ nội dung đổi mới về tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ trong điều hành của Chính phủ. Dự thảo cũng đã đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp.
Một vấn đề cũng được khá nhiều người quan tâm tại dự thảo Hiến pháp sửa đổi lần này là về quyền con người và bình đẳng giới.
Theo chuyên gia, trong nhiều năm trở lại đây, bình đẳng giới trên thế giới và ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và có những sự biến chuyển tích cực trong đời sống xã hội cũng như thực tế pháp lý nhằm bảo đảm mục tiêu này. Điều này cũng được thể hiện trong dự sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Hiện nay Dự thảo Hiến pháp thể hiện quan niệm về giới chủ yếu và rõ nhất ở hai điều: Điều 27 và Điều 39. Điều 27 của Dự thảo quy định “Công dân nam, nữ bình đẳng và có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình.
Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân nữ và nam trên mọi lĩnh vực. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
Thạc sỹ Phan Thanh Hà, Viện Nhà nước và Pháp luật Viện Hàn lâm KHXHVN cho rằng, Dự thảo Hiến pháp giới hạn khái niệm “giới” ở sự phân biệt giới tính giữa “nam” và “nữ”. Như vậy, vô hình trung, Dự thảo Hiến pháp đã bó hẹp khái niệm “giới” cũng như quan điểm “bình đẳng giới”, và bỏ qua một nhóm đối tượng, đang ngày càng được nhắc đến nhiều và thừa nhận trong xã hội. Đó là cộng đồng những người đồng tính, song tính và chuyển giới – vốn là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội.
Theo Thạc sỹ Phan Thanh Hà, vấn đề cộng đồng người đồng tính, song tính và dị tính đang đặt ra những vấn đề thời sự cần được giải quyết trên mọi phương diện xã hội, trong đó, không thể không nhắc đến việc bảo vệ quyền lợi cho họ dưới khía cạnh pháp lý. Những người thuộc giới tính thứ ba là những đối tượng yếu thế, và họ không có sự lựa chọn khác cho giới tính của mình. Cũng có nghĩa là họ cũng bình đằng như bao người khác và cần được bảo vệ khỏi sự xâm phạm và những kỳ thị không đáng có trong xã hội, nhất là xã hội vẫn mang nặng tư tưởng bảo thủ của Nho giáo như ở Việt Nam.
Vấn đề “giới tính thứ ba” đã được thừa nhận rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế cùng với yêu cầu bảo đảm hơn nữa quyền con người, bảo đảm bình đẳng giới, thì đề tài về “giới tính thứ ba” ngày càng được động chạm đến một cách sôi nổi kể cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
“Thiết nghĩ, đây là một thực tế xã hội không thể chối cãi, không thể bỏ qua và cần được thừa nhận, điều chỉnh trong pháp luật, cũng là một bước phát triển cao hơn trong công cuộc hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. Việc thừa nhận giới tính thứ ba trong Hiến pháp-đạo luật gốc của quốc gia-sẽ thật sự là một bước phát triển mới, nhân đạo và phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại cũng như mục tiêu bảo vệ quyền con người của chúng ta”- Thạc sĩ Hà đề nghị.
Còn theo TS Trần Văn Miều, nguyên Giám đốc Trung tâm Văn hóa Giáo dục thanh thiếu niên: “Trong Hiến pháp có quy định mọi người dân có quyền xác định dân tộc của mình, nhưng lại không nói đến giới tính. Tôi đề nghị Đề nghị bổ sung thêm công dân có quyền xác định giối tính vào Điều 45: Công dân có quyền xác định dân tộc…. Bởi vì người ta có quyền xác định dân tộc, thì người ta cũng có quyền xác định giới tính. Ví dụ 1 em sinh ra đang ở giới tính này, nhưng sau khi 18 tuổi tính nam trội hơn, em đó có quyền xác định giới tính của mình”- TS Miều đề nghị./.
- Báo Đại đoàn kết có bài 2 Ủy ban của Quốc hội góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Bài bá phản ánh: Ngày 4-3, tại Hà Nội, Ủy ban Các vấn đề xã hội và UB Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức tọa đàm góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tọa đàm đã ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp. Nguyên Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Lương Phan Cừ cho rằng, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước là luôn quan tâm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người…
Vì vậy, Hiến pháp cần có những điều khoản quy định rõ về quyền, trách nhiệm của con người để công dân Việt Nam vừa tuân thủ pháp luật vừa có điều kiện phát triển toàn diện góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Vấn đề lợi nhuận hay phi lợi nhuận trong lĩnh vực y tế cũng được các đại biểu quan tâm. Chuyên gia cao cấp Viện Nghiên cứu lập pháp Đặng Văn Thanh cho rằng, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi nói rõ rằng, các hoạt động liên quan tới lợi ích cộng đồng đều được quan niệm là phi lợi nhuận. Hoàn toàn đồng ý với điểm này, tuy nhiên, ông Thanh cho rằng không cần thiết nêu rõ trong Hiến pháp vấn đề này bởi Hiến pháp là luật gốc, luật cơ bản, cần ngắn gọn, cô đọng; những vấn đề cụ thể quy định ở những luật chuyên ngành…
Về Chương 3 của Dự thảo sửa đổi được xây dựng trên cơ sở lồng ghép, gộp Chương 2 - Chế độ Kinh tế và Chương 3 - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp hiện hành nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Ý kiến của các đại biểu đều cho rằng: Nội dung chương này đã có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Dự thảo tiếp tục khẳng định: Phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tán thành với quan điểm này, có ý kiến cho rằng, để phát triển khoa học, công nghệ thì vấn đề thu hút nhân tài là đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, điều 67 của Dự thảo chưa đề cập nội dung này. Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung Khoản 4 "Nhà nước tạo điều kiện đặc biệt thu hút nhân tài nhằm phát triển khoa học, công nghệ”. Điều 68 trong Chương 3 của Dự thảo là điều mới, trong đó quy định: bảo vệ môi trường là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và là nghĩa vụ của mọi tổ chức, cá nhân. Đánh giá cao điểm mới này, các đại biểu cho rằng: Quy định như vậy nhằm nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân trong việc bảo vệ môi trường, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
2. Báo Công lý có bài Góp ý sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000: Hôn nhân thực tế và hôn nhân bất hợp pháp. Bài báo phản ánh: Trong thực tiễn xét xử, ngành Tòa án đã công nhận hôn nhân thực tế trong nhiều năm. Khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực đến nay thì chỉ còn công nhận hôn nhân thực tế cho các trường hợp chung sống như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987. (Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội).
Chung sống như vợ chồng là một hiện tượng xã hội sẽ tiếp tục tồn tại và có nhiều khả năng sẽ phát triển, dù Nhà nước không khuyến khích, không thừa nhận. Có không ít người hoàn toàn nhận thức được điều đó nhưng họ vẫn không đi đăng ký kết hôn. Bởi lẽ, hôn nhân không phải hình thành, tồn tại xuất phát từ tờ giấy, dù tờ giấy đó có giá trị pháp lý rất cao. Hôn nhân xuất phát từ nhu cầu của mỗi cá nhân trong mối quan hệ xã hội. Vì vậy, Nhà nước nên điều tiết theo bản chất của quan hệ đó để thừa nhận hay không thừa nhận họ là vợ chồng. Do đã từng tham gia xét xử công nhận hôn nhân thực tế, nên cảm thấy băn khoăn khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không còn công nhận hôn nhân thực tế. Mặc dù khi công nhận hôn nhân thực tế Thẩm phán sẽ gặp khó khăn nhiều hơn, vì phải đánh giá quan hệ sống chung đó có đủ điều kiện công nhận hôn nhân thực tế hay không. Một khi phải xem xét về bản chất bao giờ cũng khó hơn khi chỉ xét về hình thức. Nhưng phụ nữ và trẻ em sẽ được lợi nhiều hơn, đặc biệt là phụ nữ khi việc chung sống của họ được thừa nhận là vợ chồng về pháp lý chứ không phải chỉ có gia đình, họ hàng, bạn bè thừa nhận họ là vợ chồng. Đây là vấn đề cũng có phần nhạy cảm và có thể sẽ có nhiều người chưa đồng tình, vì cho rằng công nhận hôn nhân thực tế là khuyến khích họ không đăng ký kết hôn, không tuân thủ pháp luật.
Lo ngại của quan điểm này là đáng suy nghĩ, cân nhắc. Nhưng pháp luật ra đời là để quản lý xã hội, quản lý Nhà nước, là để mọi hoạt động phải theo một trật tự thúc đẩy xã hội phát triển và cuối cùng nhằm mục tiêu phục vụ con người, vì con người. Song rất tiếc chỉ vì một vi phạm hình thức (không đăng ký) mà Luật Hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 11 là không công nhận họ là vợ chồng, dù trên thực tế họ hàng, gia đình, bạn bè, cộng đồng dân cư ở đó đều công nhận họ là vợ chồng; và chính đôi nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đều ứng xử với nhau, coi nhau là vợ chồng. Chỉ có pháp luật vẫn không công nhận họ là vợ chồng (do họ không tuân thủ việc đăng ký kết hôn) liệu có quá khắt khe, có thỏa đáng không? Nếu việc không đăng ký kết hôn gây ra hậu quả rất xấu cho xã hội, cho Nhà nước thì việc bắt buộc mọi công dân phải chấp hành, nếu không chấp hành phải chịu những hậu quả là cần thiết, còn trong trường hợp này còn có sự lựa chọn khác đưa lại kết quả có thể hợp lý hơn. Pháp luật chỉ là một công cụ phục vụ cho con người, bất kể quy định nào đó của luật có tính nhân văn cao hơn, vì con người hơn thì dù có thể gây khó khăn nhất định cho cơ quan, cho người có thẩm quyền khi thi hành, khi áp dụng thì vẫn nên lựa chọn những quy định vì người dân, tôn trọng quyền tự do của người dân, nếu nó không xâm phạm quyền lợi của người khác, của Nhà nước và xã hội.
Trên thế giới cũng có những nước công nhận hôn nhân thực tế. Ví dụ: Điều 739 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định việc kết hôn phát sinh bằng việc đăng ký phù hợp quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, trong án lệ, Tòa án Nhật Bản cũng công nhận hôn nhân của những người chung sống như vợ chồng, nếu được cộng đồng xung quanh thừa nhận hoặc dựa trên lý do chính đáng khác. Bộ luật Dân sự Pháp từ Điều 515-1 đến Điều 515-8 đã quy định cụ thể về thỏa thuận tổ chức cuộc sống chung và hôn nhân thực tế. Tại các Điều 53, 55 Luật Gia đình Canada đã quy định hai người chung sống mà không đăng ký kết hôn có thể thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của mình trong thời gian chung sống hoặc việc chấm dứt thời gian chung sống. Thỏa thuận đó phải được lập thành văn bản. Nếu sau này hai bên kết hôn thì thỏa thuận chung sống này được coi là thỏa thuận hôn nhân… có thể mỗi nước có cách tiếp cận và xử lý vấn đề này có khác nhau ở mức độ nhất định, nhưng điều cơ bản họ đã thừa nhận nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu không vi phạm các điều kiện về nội dung, các điều cấm thì sẽ được công nhận hôn nhân thực tế. Đây là thông tin có thể tham khảo khi sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, và cần cân nhắc lại vấn đề công nhận hôn nhân thực tế. Nếu lựa chọn theo hướng công nhận hôn nhân thực tế như trước đây đã từng được áp dụng trong thực tiễn thì quy định rõ trong luật những điều kiện để được công nhận hôn nhân thực tế và có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp.
Nếu như trong quan hệ hôn nhân hợp pháp Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định tài sản chung, tài sản riêng, nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn (Điều 27, 32, 97); nhưng đối với hôn nhân bất hợp pháp thì chỉ có Điều 17 quy định về giải quyết hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật, nhưng quy định này cũng chỉ định tính, không cụ thể. Trong khi, không có quy định nào nêu rõ cơ sở để xác định tài sản chung, nhập tài sản riêng vào tài sản chung v.v…
Tại khoản 3 Điều 17 có quy định khi chia tài sản “…ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con” cần được hiểu như thế nào? Có phải ưu tiên là sẽ chia tài sản theo yêu cầu của họ? Chia tài sản cho họ nhiều hơn so với công sức đóng góp và chia nhiều hơn khoảng bao nhiêu là vừa? vv…. Vì không cụ thể nên khi giải quyết quan hệ tài sản các thẩm phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất dễ phạm sai sót.
Kết hôn bất hợp pháp và chung sống với nhau như vợ chồng (kể cả người đồng giới) sẽ có những điểm chung về cơ sở hình thành tài sản chung, nhập tài sản riêng vào tài sản chung, nguyên tắc chia tài sản v.v… Do đó, cần có một số điều quy định chung về vấn đề con cái. Trong quan hệ này cần có một vài điều quy định chung về nguyên tắc xác định quan hệ cha con, và quy định viện dẫn (về các điều giải quyết việc giao nuôi con, phí tổn nuôi con trong quan hệ hôn nhân hợp pháp vì vấn đề này là giống nhau). Về tài sản, cần quy định cơ sở hình thành tài sản chung, xác định tài sản chung, tài sản riêng… chia tài sản chung v.v… làm cơ sở pháp lý cho việc xác định tài sản chung, tài sản riêng, chia tài sản chung v.v…
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thân chủ méo mặt vì luật sư “mất tích”. Bài báo phản ánh: Hơn một tháng nay, một số người dân ở tỉnh Bình Phước gửi đơn đến Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước, tố cáo luật sư TMT (làm việc tại một văn phòng luật sư ở huyện Hớn Quản) nhận tiền của thân chủ rồi bỏ đi đâu không rõ khiến họ lao đao.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Thủy, tháng 8-2011, bà ký hợp đồng ủy quyền cho luật sư T. để ông tham gia tố tụng một vụ án dân sự tại TAND huyện Chơn Thành. Khi ký hợp đồng ủy quyền, bà đưa cho ông này 20 triệu đồng. Sau khi làm hợp đồng, bà an tâm là ông sẽ thay mặt mình thực hiện các nghĩa vụ của người được ủy quyền. Tuy nhiên, ông T. đã đơn phương chấm dứt hợp đồng với bà mà không thông báo gì làm thiệt hại quyền lợi của bà.
Trong biên bản làm việc với Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước, bà Thủy tố cáo là trong quá trình chuẩn bị xét xử, TAND huyện Chơn Thành đã triệu tập ông T. nhiều lần nhưng ông không có mặt. Sau hai lần hoãn phiên tòa, tháng 9-2012, tòa xử vắng mặt vì ông T. không đến. Trong bản án có nhắc đến việc ông T. từ chối ủy quyền nhưng bà Thủy phản ánh là bà không được thông báo gì về sự từ chối ủy quyền này của ông T.
Ngoài ra, ông Trịnh Văn Kim ở thị xã Bình Long cũng phản ánh là ký hợp đồng ủy quyền, đưa trước cho ông T. 15 triệu đồng để tham gia tố tụng trong một vụ án hành chính. Tuy nhiên, đến nay đã hơn tám tháng mà ông T. vẫn chưa nộp đơn của ông đến tòa án.
Đặc biệt, bà Nguyễn Thị Kiểm ở huyện Bù Đốp đang méo mặt với sự “mất tích” của luật sư T. Theo bà Kiểm, bà nhờ luật sư T. tham gia tố tụng trong vụ việc đòi bồi thường cho con bà bị tai nạn giao thông. Bà đưa trước cho ông 5 triệu đồng và giao hết hồ sơ gồm biên lai viện phí và các giấy tờ liên quan của con bà cho luật sư. Tuy nhiên, nhận xong giấy tờ thì ông T. cũng “mất tích” làm bà nóng cả ruột…
Ngày 4-3, trao đổi với phóng viên về chuyện lùm xùm của luật sư T., luật sư Hoàng Kim Vinh - Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước cho biết: “Đoàn Luật sư đã nhận được một số đơn của người dân phản ánh việc hành nghề của luật sư T. Chúng tôi cũng đã nhiều lần liên lạc với luật sư này để mời lên giải quyết các vụ việc mà người dân tố cáo nhưng không được. Hiện Đoàn Luật sư tỉnh Bình Phước cũng không biết luật sư T. đang ở đâu”.
“Với những gì mà người dân tố cáo, tôi thấy luật sư T. đã vi phạm đạo đức hành nghề và có dấu hiệu vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho nhiều người dân, có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản... Tại Đại hội Đoàn Luật sư tỉnh vừa qua, chúng tôi cũng đã thông báo cho đại hội về vụ việc của luật sư T. Chúng tôi sẽ xem xét các đơn thư tố cáo của người dân với luật sư T. để chuyển cho cơ quan điều tra làm rõ” - luật sư Vinh nói.
Theo một luật sư ở tỉnh Bình Phước, trước đây ông T. là phó chánh án TAND huyện Bù Đốp, sau đó chuyển về làm thẩm phán huyện Hớn Quản. Sau khi bị kỷ luật, ông T. xin về Đoàn Luật sư tỉnh và được công nhận tư cách thành viên Đoàn Luật sư tỉnh vào tháng 7-2011 đến nay.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Sài Gòn tiếp thị Media có bài Từ việc thu phí ATM nghĩ đến “kinh doanh dịch vụ rút tiền”. Bài báo phản ánh: Ngày 1.3.2013 ngân hàng Nhà nước (NHNN) bắt đầu cho phép các ngân hàng thương mại được thu phí rút tiền nội mạng. Việc này NHNN căn cứ vào Pháp lệnh phí và lệ phí số 38/2001/PL-UBTVQH10. Nhưng phí và lệ phí ở đây phải hiểu là thu trên những dịch vụ công, như phí công chứng, chứng thực; phí cầu, phà, đường bộ... Còn phí rút tiền về bản chất là một loại doanh thu của ngân hàng.
Thực ra cho đến trước việc cho phép này, các ngân hàng đã thu phí rút tiền trên sáu nhóm đối tượng khách hàng: khách hàng là chủ thẻ ghi nợ (debit) nội địa rút tiền từ máy ATM ngoại mạng; chủ thẻ ghi nợ nội địa rút tiền nội mạng nhưng rút tiền tại máy ATM khác tỉnh thành và khách là chủ thẻ ghi nợ quốc tế đến Việt Nam và rút tiền tại máy ATM ở Việt Nam; khách hàng là chủ thẻ tín dụng (credit) rút tiền từ máy ATM ngoại mạng; chủ thẻ tín dụng rút tiền nội mạng bất kỳ máy ATM nào – cùng tỉnh thành hay khác tỉnh thành; khách là chủ thẻ tín dụng quốc tế đến Việt Nam và rút tiền tại máy ATM ở Việt Nam. Tức là chỉ còn mỗi nhóm đối tượng khách hàng cuối cùng là chủ thẻ ghi nợ nội địa rút tiền nội mạng trong cùng tỉnh thành.
Không có cái gọi là kinh doanh dịch vụ ATM. Kinh doanh ATM chỉ có thể là giữa các nhà máy chế tạo máy ATM với các ngân hàng; còn đối với các ngân hàng thì máy ATM phải được hiểu là công cụ hỗ trợ dịch vụ bán hàng của các ngân hàng thương mại. Chi phí duy trì hệ thống ATM phải hạch toán vào “Chi phí bán hàng – 641” hoặc “Chi phí quản lý doanh nghiệp – 642”. Chỉ cần hình dung một ngân hàng có địa chỉ giao dịch không hẳn đắc lợi nhưng may mắn sở hữu được một vị trí đặt máy ATM đắc địa mà nhiều người đi đường dễ nhìn thấy và dễ tìm ra thì sức quảng bá thương hiệu ngân hàng đó rất mạnh. Điều này khiến người ta liên tưởng đến thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Có rất nhiều đối tượng chịu thuế TNCN có nhiều nguồn thu nhập khác nhau và tổng thu nhập hàng tháng rất lớn, hàng trăm triệu đồng nhưng không nắm bắt quản lý được, tổng cục Thuế chỉ biết thu với những kẻ có tóc ở đây là những người làm công ăn lương, nhưng như vậy thì lượng thu ngân sách không cao, bị thất thu thuế TNCN rất lớn.
Không phải là xử lý nợ xấu không được thì ngân hàng quay ra tận thu, và dễ dàng nhất là với những người đang có tiền gửi tại các ngân hàng; nhất là những người gửi tiền không kỳ hạn, trong đó có những chủ ghi nợ sử dụng thẻ ATM, và những người nhận lương qua thẻ ghi nợ. Dẫn tới một điều mà ai cũng biết là vô lý: người lao động khi nhận lương qua thẻ và rút tiền lương qua thẻ không được hưởng nguyên lương mà họ nhận được hàng tháng. Người lao động chỉ có hai cách phản ứng: một là rút tiền với hạn mức cao nhất để rút hết lương (với con số có thể) trong một lần để chỉ mất phí một lần; hoặc cầm chứng minh nhân dân (CMND) ra bất kỳ chi nhánh ngân hàng nào mà mình đang sử dụng dịch vụ thẻ để rút hết tiền mà không chịu phí. Vấn đề là không phải ai cũng quen hay mạnh dạn với việc ra ngân hàng giao dịch mỗi lần như vậy!
Cũng may là ở đây, dù cho phép (không phải bắt buộc), nên có ngân hàng thực hiện sự cho phép nhưng cũng có các ngân hàng từ chối quyền được thu phí này, giống như một sự chia sẻ chuyện cơm áo gạo tiền với người lao động trong bối cảnh nền kinh tế còn suy thoái như hiện nay.
2. Báo Dân Việt có bài Phạt người đội mũ bảo hiểm rởm: Ấu trĩ & không khả thi. Bài báo phản ánh: Bản thân người tiêu dùng cũng chỉ là nạn nhân của hàng giả, giống như người mua phải gas rởm, thuốc rởm, sữa rởm hay thức ăn không đảm bảo... Trách nhiệm để xảy ra việc đó là thuộc về cơ quan chức năng.
Nhằm chấm dứt tình trạng người đội mũ bảo hiểm (MBH) rởm, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia (ATGTQG) sẽ mở chiến dịch xử phạt các cơ sở sản xuất kinh doanh buôn bán và những người đội mũ rởm trên toàn quốc từ 15.4.
Tuy nhiên, điều này cũng gây ra những bức xúc trong dư luận. Lẽ ra, công tác kiểm tra việc sản xuất, kinh doanh MBH phải được cơ quan chức năng thực hiện quyết liệt và đồng bộ ngay cùng thời điểm Chính phủ có quy định bắt buộc đội MBH. Thế nhưng trong 5 năm qua, vấn đề trên dường như lại bị thả nổi, việc thực hiện chỉ mang tính phong trào, lác đác ở một số nơi, sau đó lại bị bỏ ngỏ. Các sản phẩm mũ giả, kém chất lượng lâu nay vẫn được bày bán một cách công khai. Không chỉ ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng... mà ở các vùng quê MBH rởm, kém chất lượng cũng tràn lan, không bị xử lý.
Anh Hoàng Đức Nhã (Long Biên, Hà Nội) bức xúc: Chúng tôi là những người dân, những người chỉ thụ động khi đi mua MBH. Chúng tôi cứ thấy họ bày bán mà không bị ai cấm thì mua, làm sao mà biết phân biệt thật - giả. Đi phạt người dân kiểu này liệu có hiệu quả và khả thi không, có khác gì chuyện xây nhà từ nóc?
Một trong những vấn đề nữa khiến dư luận băn khoăn là nếu quy định được thực thi, lực lượng nào sẽ xử phạt việc đội MBH rởm. Lâu nay những hành vi vi phạm giao thông do lực lượng CSGT và Thanh tra giao thông xử lý, liệu việc xử lý đội MBH rởm có tiếp tục trông chờ vào lực lượng này?
Một cán bộ của Phòng CSGT – Công an TP.Hà Nội bày tỏ, việc chứng minh MBH thật hay giả phải có chuyên môn và đương nhiên việc này không thuộc thẩm quyền của CSGT. Với số lượng lớn người tham gia giao thông đội MBH, lực lượng đâu xuể để dừng xe để kiểm tra chiếc mũ. Luật sư Tiến kiến nghị, cần phải tập trung xử lý mạnh ở khâu sản xuất và kinh doanh MBH rởm, đó mới là biện phạt xử lý triệt để từ gốc vấn đề.
3. Báo Nhân dân điện tử có bài Ngân hàng Nhà nước được phép mua, bán vàng miếng để can thiệp, bình ổn thị trường vàng. Bài báo phản ánh: Ngày 4-3, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 16/2013/QÐ-TTg về việc mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam.
Theo đó, căn cứ mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, NHNN được phép mua, bán vàng miếng để can thiệp, bình ổn thị trường vàng trong nước và mua vàng miếng để bổ sung vào dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Việc thực hiện mua, bán vàng miếng, xác định giá mua, giá bán với tổ chức tín dụng, doanh nghiệp của NHNN được thực hiện theo phương án mua, bán vàng miếng theo quy định trong từng thời kỳ.
Quyết định cũng quy định Thống đốc NHNN có trách nhiệm quyết định phương án can thiệp thị trường vàng. Riêng về hình thức thực hiện mua, bán vàng miếng, NHNN sẽ lựa chọn hình thức trực tiếp hoặc thông qua đấu thầu...