Điểm tin báo chí các ngày 02, 03, 04 tháng 3 năm 2013

04/03/2013
Trong các ngày 02, 03/02 và đầu giờ sáng ngày 04/3/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

            1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:

            - Báo Báo Đại đoàn kết có bài Gỡ vướng về vấn đề đất đai trong Hiến pháp và Luật Đất đai sửa đổi: Phải công nhận quyền sở hữu đất đai. Bài báo phản ánh: Trao đổi với PV Đại Đoàn Kết, GS. Lưu Văn Đạt, Chủ nhiệm HĐTV về Dân chủ - Pháp luật, UBTƯ MTTQ Việt Nam cho rằng, Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi sẽ không giải quyết được những vấn đề "nóng” về đất đai hiện nay, nếu như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không công nhận quyền sở hữu hạn chế về đất đai của người dân, tư nhân. Để giải quyết vấn đề đất đai, thì Hiến pháp phải công nhận quyền sở hữu về đất đai của người dân, tư nhân.

            PV: Ông có kiến nghị gì về Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi?

            GS. Lưu Văn Đạt: Trong Luật Đất đai sửa đổi, thì vấn đề lớn nhất là dân có quyền sở hữu đất đai hay không? Tư nhân có quyền sở hữu đất đai hay không? Đó là những vấn đề lớn nhất. Tuy nhiên, Luật Đất đai sửa đổi không đề cập là vì Hiến pháp chưa sửa đổi. Cho nên, vấn đề là phải gắn với Hiến pháp xem có sửa đổi điều đó không. Chứ nếu dựa vào Luật Đất đai cũ thì nhất định người ta chỉ nói đến vấn đề thu hồi đất. Cho nên vấn đề rất cơ bản đó là có thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người dân hay không? Hiện có hai loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất là sở hữu đất đai cứ để là toàn dân, còn loại ý kiến thứ hai là cần phải thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người dân. Có sở hữu đất đai của người dân, có sở hữu đất đai của cộng đồng, có sở hữu đất đai của Nhà nước. Sở hữu đất đai của Nhà nước chính là sở hữu của toàn dân mà chúng ta thường vẫn gọi. Vấn đề đất đai là vấn đề rất quan trọng trong Hiến pháp lần này và cần được giải quyết. Quyền sở hữu có 3 quyền gồm: chiếm hữu; sở hữu; định đoạt. Các quyền này thì luật pháp thế giới và luật dân sự của Việt Nam cũng đã quy định rõ. Vì vậy, quyền sở hữu và quyền sử dụng là hai khái niệm khác nhau. Mà quyền sử dụng nằm trong quyền sở hữu chứ không phải ngang với quyền sở hữu. Ở các nước khác thì có quyền sở hữu tuyệt đối, nhưng sở hữu về đất đai thì hầu hết các nước đều có quyền sở hữu hạn chế. Hạn chế nghĩa là về thời gian có nước quy định là 99 năm, có nước là 199 năm, nhưng hầu hết các nước là 99 năm. Cái thứ hai là hạn chế về quyền sử dụng, nghĩa là nếu đất đó là thổ địa thì chỉ được làm nhà, còn đất vườn là trồng cây vườn chứ không được làm nhà, đất trồng cấy thì chỉ được trồng cấy chứ không được chuyển công năng từ cái nọ sang cái kia mà không được phép của các cơ quan có thẩm quyền. Chính vì vậy, tôi kiến nghị rằng phải thừa nhận quyền sở hữu hạn chế về đất đai của tư nhân. Điều đó phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như luật pháp Việt Nam trước đây. Bởi đến tận năm 1980 chúng ta mới có quyền sở hữu toàn dân về đất đai chứ trước đây không có.

            Thưa ông, vậy trong Luật Đất đai sửa đổi phải có cơ chế nào để giám sát việc thu hồi đất vốn đang là đề tài "nóng” của xã hội hiện nay?

            - Nếu người dân được sở hữu đất đai thì mỗi khi thu hồi đất chúng ta phải quốc hữu hóa đất đó. Biến cái của dân thành cái của công thì phải theo cơ chế trưng mua, trưng dụng. Như thế ta mới giải quyết được vấn đề thu hồi đất tùy tiện hiện nay. Chúng ta giao quyền thu hồi đất cho UBND cấp huyện, như vậy là có hơn 500 cơ sở có quyền thu hồi đất. Như thế sẽ không thể nào quản lý, giám sát được.

            Nếu Hiến pháp công nhận quyền sở hữu hạn chế về đất đai của người dân, thì việc thu hồi đất, và giá đất sẽ được thực hiện theo phương thức nào, thưa ông?

            - Thu hồi đất phải được thực hiện theo phương thức quốc hữu hóa, tức là trưng mua, trưng dụng. Trong Hiến pháp cũng như trong Luật Đất đai sửa đổi muốn thực hiện quyền làm chủ của người dân thì phải thừa nhận quyền sở hữu hạn chế về đất đai của người dân. Vì nói quyền của người dân thì trước hết phải xác định rõ là quyền gì? Quyền của người ta là quyền sở hữu hạn chế. Mà muốn đảm bảo quyền đó thì phải thực hiện theo luật pháp, tức là khi người ta là sở hữu hạn chế thì không được tùy tiện thu hồi đất. Nếu thu hồi phải thực hiện theo cơ chế quốc hữu hóa tức là trưng mua, trưng dụng. Giá đất sẽ theo giá thị trường. Hai bên phải thỏa thuận với nhau.

            Vậy vấn đề sở hữu đất đai và quyền công dân được hiến định trong Hiến pháp có mối quan hệ với nhau như thế nào?

            - Công dân có quyền sở hữu đất đai, sở hữu hạn chế đất đai. Hai cái đó nó gắn với nhau. Đó là quyền của công dân.

            Thưa ông, vậy thì quyền công dân được quy định trong Hiến pháp đã toát lên được ý đó chưa?

            - Chưa. Trong Hiến pháp chưa nói rõ quyền đó. Như vậy phải nói rõ công dân có quyền sở hữu hạn chế về đất đai.

            Để giải quyết vấn đề đất đai trong Hiến pháp và Luật Đất đai sửa đổi thì phải thực hiện như thế nào?

            - Nếu mà trong Hiến pháp ghi công dân có quyền sở hữu hạn chế về đất đai thì trong Luật Đất đai sửa đổi phải làm rõ cái hạn chế là như thế nào. Hiến pháp là đạo luật gốc, cơ bản nhất. Nếu Hiến pháp mà không quy định công dân có quyền sở hữu hạn chế về đất đai thì Luật Đất đai không thể nào làm khác được. Nếu thừa nhận quyền sở hữu về đất đai thì giá đất sẽ khác. Vì lúc đó phải theo giá thị trường. Hai bên phải thỏa thuận với nhau. Tức là cơ quan nào muốn thu hồi đất thì phải mặc cả, đàm phán với người chủ sở hữu. Chính quy định không chặt chẽ đã đẻ ra nạn tham nhũng, thu hồi đất tùy tiện. Thu hồi rất rẻ mà bán với giá cao. Đó là nguyên nhân của tham nhũng. Nếu thừa nhận quyền sở hữu thì không tham nhũng được nữa, vì đó là quyền của người ta, nếu muốn lấy thì phải thỏa thuận. Điều đó cũng giúp xã hội ổn định đi rất nhiều. Bây giờ có thể nói, những người giàu nhất nước ta thì chỉ có hai loại người. Loại lợi dụng dựa vào đất của dân để làm giàu. Thứ hai là chức quyền. Vì tài sản lớn nhất ở nước ta vẫn là đất đai.

            - Báo Đại đoàn kết có bài GS. Vũ Hoan, Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Hà Nội: Người dân phải có quyền phúc quyết Hiến pháp. Đảng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc, nhân dân. Bài báo phản ánh:

            PV: Nhiều ý kiến cho rằng, Điều 4 của Hiến pháp cần phải viết lại. Bởi dân tộc và nhân dân phải là trên hết, sau đó mới đến Đảng. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này, và có kiến nghị gì?

            GS. Vũ Hoan: Điều 4 nói về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là cần thiết và khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nói về Đảng được ghi vào Hiến pháp, ngôn từ không giống như trong Điều lệ Đảng mà phải được viết rõ hơn để nhân dân thấy rõ bản chất của Đảng là luôn luôn đổi mới, tự hoàn thiện để lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tôi cho rằng Điều 4 về Đảng trong Hiến pháp nên được chỉnh lại. Thứ nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam nói rõ Đảng hiện nay ở vị trí nào, làm cái gì đối với nhân dân, đối với thể chế. Phải giải thích rõ Đảng làm như thế nào, làm sứ mệnh gì? Thứ hai là phải nói Đảng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và đất nước, chịu sự kiểm soát. Thứ ba là Đảng và các tổ chức, đảng viên phải hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.

            Vậy ông muốn nhấn mạnh rằng, Đảng phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và đất nước?

            Đúng vậy, nói Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân không đủ độ cho người ta tin, không đủ độ để làm cho tinh thần của Đảng sâu được. Chính vì vậy, phải là chịu trách nhiệm trước dân tộc và đất nước. Vì dân tộc cao hơn đất nước và nhân dân. Tôi muốn nhấn mạnh như vậy để nâng tầm trách nhiệm của Đảng lên trước dân tộc và đất nước. Đảng phải chịu trách nhiệm hết, chứ không phải chỉ chịu trách nhiệm về quyết định của mình như trong Hiến pháp nêu. Tất cả đường lối làm đất nước giầu sang mạnh mẽ lên hay không thì Đảng phải chịu trách nhiệm. Ngay vấn đề bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, Đảng cũng phải chịu trách nhiệm vì Đảng là của dân tộc, của nhân dân.

            Đảng hoạt động phải chịu sự giám sát. Vậy Đảng phải hoạt động theo luật, thưa ông?

            Theo tôi, Đảng hoạt động theo Hiến pháp là được rồi. Vì luật của Đảng là Điều lệ Đảng. Mà Điều lệ Đảng đã được dựa trên cơ sở phát triển của Đảng, dựa trên cơ sở Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân mà sinh ra Điều lệ Đảng. Nhân dân đã ủy nhiệm cho Đảng để hoạt động. Cho nên, luật về Đảng theo tôi là không cần thiết. Vì Đảng hoạt động theo điều lệ và chịu trách nhiệm trước dân tộc rồi.  Chính vì vậy, trong Hiến pháp mà quy định rõ Đảng chịu trách nhiệm trước dân tộc, trước nhân dân và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật thì sẽ không cần nữa.

            Nói Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, vậy nhân dân có cơ chế gì để giám sát, thưa ông?

            - Chúng ta đã có các cơ chế như: pháp lệnh dân chủ ở cơ sở;  cơ chế về phê bình và tự phê bình; các chính sách quyết định về góp ý cho đảng viên sinh hoạt ở cơ sở, nhưng nó chưa thành một quy định. Thực ra, để giám sát một cách có hiệu quả thì nó phải có cơ chế, chính sách rõ ràng. Phải đưa vào luật thì mới đảm bảo được. Vì Đảng lãnh đạo là duy nhất. Cho nên, phải có người phản biện lại. Hiện nay cũng có quy định phản biện là MTTQ, nhân dân, các đoàn thể nhưng cơ chế đó cũng chưa rõ ràng. Bây giờ cần phải có một cơ chế phản biện thực sự rõ ràng. Khi có ý kiến của nhân dân thì Đảng, Nhà nước phải có trách nhiệm làm rõ. 

            Thưa ông, có ý kiến cho rằng, trong Đảng đang còn những khoảng trống chưa được kiểm soát. Vậy phải có luật thì mới giám sát được?

            Trong các luật cũng quy định rồi như Luật Phòng chống tham nhũng. Phải làm rõ từng trường hợp cụ thể để nhân dân nắm rõ được. Chứ chỉ làm trong Đảng không thì nhân dân vẫn chưa giám sát được. Muốn dân giám sát được, phải làm rõ cái nào là của tập thể, cái nào là của cá nhân thì đó mới đúng, thực sự lấy được lòng dân.

            Nhiều ý kiến cho rằng, đọc Hiến pháp vẫn chưa toát lên được tinh thần nhân dân làm chủ đất nước?

            Trong bản Hiến pháp thì quyền và nghĩa vụ của công dân thì có nhiều, nhưng cơ chế giám sát của nhân dân phải rõ ràng hơn. Hiến pháp phải là dân chủ. Dân chủ nghĩa là nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ Hiến pháp. Vậy thì làm chủ như thế nào thì cần phải nói rõ thêm.

            Như vậy, để người dân thực sự làm chủ, thì người dân phải được phúc quyết Hiến pháp?

            - Ở các nước văn minh hiện nay, đúng là người dân có quyền phúc quyết Hiến pháp. Như vậy, là đúng với nguyện vọng của toàn dân. Thực ra, nhân dân ta đã có truyền thống đi theo Đảng rồi. Vì vậy, không ngại gì mà không để nhân dân phúc quyết Hiến pháp. Cho nên, việc để nhân dân phúc quyết Hiến pháp là điều cần thiết. Tôi nói ví dụ như Hiến pháp năm 1946 vừa mới ra đời thì đất nước gặp chiến tranh nên nhân dân không phúc quyết được. Các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 thì chúng ta cũng chưa có điều kiện làm được việc ấy. Nhưng bây giờ, có điều kiện rồi thì chúng ta nên cho dân được phúc quyết Hiến pháp để thỏa mãn nguyện vọng của toàn dân. Và cho dân thấy Hiến pháp thực sự là của dân.

            2. Trang Vietstock có bài Thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai: Bức bách… và rủi ro. Dù các thông tư hướng dẫn thế chấp nhà ở HTTTL có được xây dựng như thế nào mà Luật Nhà ở và Luật Công chứng không sửa kịp thời thì thông tư dù ra đời cũng sẽ trái luật. Khi rủi ro như vậy, liệu có TCTD nào dám nhận tài sản thế chấp là nhà ở HTTTL.

            Cho phép thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai (HTTTL) được kỳ vọng là một trong những giải pháp góp phần giải tỏa những khó khăn của thị trường bất động sản hiện nay. Đã có nhiều ý kiến ghi nhận những nỗ lực của các nhà quản lý khi mới đây NHNN đã gần như hoàn tất một dự thảo thông tư hướng dẫn thế chấp nhà ở HTTTL.

            Còn liên bộ Tư pháp – Tài nguyên & Môi trường cũng đã cho ý kiến bước đầu về dự thảo thông tư liên tịch hướng dẫn đăng ký thế chấp nhà ở HTTTL và việc chuyển tiếp thời điểm đăng ký thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà ở HTTTL với thời điểm đăng ký thế chấp nhà ở được hình thành.

            Tuy nhiên, làm sao để nhà ở HTTTL, đặc biệt là căn hộ chung cư có thể được thế chấp để vay vốn nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho đơn vị nhận thế chấp mới là vấn đề đáng quan tâm.

            Một cán bộ thuộc Cục Đăng ký giao dịch bảo đảm (Bộ Tư Pháp) cho biết, hình thức thế chấp nhà ở HTTTL trên thế giới có nhiều loại khác nhau. Có nước cho thế chấp, có nước lại không cho.

            Chẳng hạn Nhật Bản thì cho phép thế chấp, còn ở Pháp lúc đầu thì cho thế chấp nhưng về sau họ lại không cho phép hình thức này. Dù ở hình thức cho hay không cho phép thế chấp nhà ở HTTTL thì điểm quan trọng nhất là những nước này đã có một hệ thống bảo hiểm vững mạnh, có cơ chế bảo đảm an toàn cho nhà ở HTTTL.

            Còn ở nước ta, hiện hệ thống pháp luật về nhà ở và bảo hiểm chưa đáp ứng được các yêu cầu này”, vị cán bộ này cho biết.

            Trên thực tế, Luật Nhà ở mới được Quốc hội ban hành và đi vào cuộc sống chỉ mức ban đầu, thị trường nhà ở HTTTL chưa hình thành, thị trường vốn lại đang trong giai đoạn khó khăn. Những yếu tố này vô hình trung đã gây khó dễ cho những người hoạch định chính sách đối với thị trường này.

            Nếu đưa ra những quy định dễ dãi sẽ dễ bị lạm dụng, điều này là rất nguy hiểm nếu chủ đầu tư cam kết rồi nhưng không thực hiện. Vốn huy động rồi nhưng căn hộ không hình thành theo đúng chương trình, thời gian cam kết.

            Nhưng nếu chặt chẽ quá thì sẽ khó tháo gỡ khó khăn về vốn cho các DN bất động sản, trong bối cảnh nguồn vốn từ các TCTD ngày càng hạn hẹp và bản thân các TCTD cũng không mặn mà lắm khi cho vay lĩnh vực này. Làm thế nào để huy động được vốn lớn với lãi suất thấp đưa vào đây trở thành câu hỏi lớn cần giải đáp đối với những người làm chính sách.

            “Nguồn vốn trong dân còn rất lớn, những người thực sự có nhu cầu mua nhà ở HTTTL cũng rất lớn, các thông tư hướng dẫn cần giải tỏa bế tắc hiện nay.             Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay các hướng dẫn cần tập trung chủ yếu vào đối tượng nhà ở chung cư”, một chuyên gia pháp luật cho biết.

            Theo quy định của ngành Ngân hàng, về trình tự thủ tục, nếu TCTD nhận tài sản thế chấp phải đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký này theo luật sư Trương Thanh Đức - Chủ tịch Công ty Luật BASICO, giao dịch bảo đảm làm cho kẻ muốn vi phạm cam kết phải nhụt chí, chùn tay, còn người bị vi phạm khỏi lo thất thoát, thua thiệt. Giao dịch này để bảo đảm cho những nghĩa vụ hiện tại và nghĩa vụ trong tương lai, là loại giao dịch “xây” trước để “dùng” sau, chứ không bao giờ là ngược lại.

            Trên thực tế triển khai việc thế chấp và đăng ký giao dịch bảo đảm đối với tài sản HTTTL gặp khá nhiều khó khăn vướng mắc khi Luật Nhà ở năm 2006 đưa ra hàng loạt quy định phải áp dụng trong việc thế chấp nhà ở.

            Cụ thể, giao dịch thế chấp phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật, bên thế chấp phải là “chủ sở hữu nhà ở”, văn bản thế chấp nhà ở phải có “chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của UBND cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của UBND xã đối với nhà ở tại nông thôn” và không loại trừ bất kỳ trường hợp nào…

            Bên cạnh đó, nhiều rào cản khác để hợp đồng thế chấp nhà ở HTTTL không qua được cửa công chứng vì không đáp ứng được điều kiện “đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật” theo quy định tại Điều 5, Luật Công chứng năm 2006…

            Chính vì vậy, dù các thông tư này có được xây dựng như thế nào mà Luật Nhà ở và Luật Công chứng không sửa kịp thời thì thông tư dù ra đời cũng sẽ trái luật. Khi rủi ro như vậy, liệu có TCTD nào dám nhận tài sản thế chấp là nhà ở HTTTL.

            “Chúng tôi đã đi khảo sát tất cả ngân hàng ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội cho thấy, khi mọi thủ tục đang vướng về mặt luật pháp thì việc có nhận căn hộ HTTTL làm tài sản thế chấp hay không phải dựa trên cơ sở 3 bên: ngân hàng, chủ dự án và người mua. Khi cả 3 bên này có “liên thông” lại với nhau thì ngân hàng mới dám cho vay với đối tác mua thế chấp nhà ở HTTTL và quyền phát sinh trong hợp đồng mua nhà”, một cán bộ ngân hàng cho biết.

            Phản ánh của nhiều TCTD cũng cho biết, nếu không quy định chặt chẽ, rủi ro sẽ rơi về phía ngân hàng bởi đối với các dự án nhà ở chung cư, chủ dự án có thể được cấp quyền sử dụng đất ở, cũng có thể chỉ có quyết định giao đất mà chưa có sổ đỏ. Chủ dự án có thể sẽ bán cho nhiều người và luân chuyển qua tay nhiều người. Có khi chuyển tiếp đến người thứ 10 thì tài sản mới hình thành và có đầy đủ giấy chứng nhận.

            Dòng tiền chu chuyển như vậy khiến các ngân hàng rất khó kiểm soát. Nếu không cẩn thận sẽ bị trùng lắp bởi rất có thể chủ đầu tư thế chấp vay ngân hàng bằng quyền sử dụng đất và thế chấp cả các căn hộ HTTTL, người mua cũng thế chấp căn hộ HTTTL đó. Nếu không lường trước, hành động này sẽ gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

            Một yếu tố khác liên quan đến các thủ tục cung cấp thông tin. Đây là công việc đặc biệt quan trọng bởi nếu TCTD nhận thế chấp nhà ở có sẵn thì đơn giản, có thể kiểm tra được. Nhưng nhà ở HTTTL là rất khó khăn nên việc cung cấp thông tin này đòi hỏi có sự liên thông toàn diện. “Liệu rằng, việc cung cấp thông tin đã hiện đại hóa để có thể tra cứu dễ dàng hay chưa. Nếu không, phải quy định rất chặt chẽ, không thì rất rủi ro…”, một cán bộ ngân hàng lo lắng.

            II- THÔNG TIN KHÁC

            Trang Infonet có bài 45 tỉnh, thành đang nợ dân sổ đỏ. Bài báo phản ánh: “Cả nước hiện vẫn còn 45 tỉnh, thành chưa hoàn thành cấp giấy chứng nhận (GCN) các loại đất. Nếu không hoàn thành mục tiêu đề ra trong năm 2013, lãnh đạo các tỉnh và các Bộ liên quan sẽ phải chịu trách nhiệm”.

            Đó là khẳng định của Bộ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Minh Quang tại chương trình “Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời” vào tối 3/3.

            Theo Bộ trưởng Quang, đến nay đã có 18 tỉnh, thành phố đã cơ bản hoàn thành việc cấp GCN đối với các loại đất chính. Trong đó, có 7 tỉnh đã hoàn thành cấp GCN đối với tất cả các loại đất tại các tỉnh Đồng thuộc bằng sông Cửu Long, gồm Đồng Tháp, Long An, An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long và Bình Dương. Trong khi đó vẫn còn 45 tỉnh, thành phố chưa hoàn thành chủ trương này, trong đó 11 tỉnh đạt tỷ lệ thấp.

            Theo Bộ trưởng TN&MT, trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ cấp GCN trong năm 2013 theo Nghị quyết của Quốc hội, trước hết thuộc trách nhiệm của Lãnh đạo tỉnh và Sở TN&MT địa phương. Đồng thời, các Bộ mà trực tiếp là Bộ TN&MT, Bộ Tài chính và một số Bộ khác cũng có trách nhiệm trong việc này.

            “Hết năm 2013 Bộ TN&MT sẽ đánh giá kết quả thực hiện, nếu không hoàn thành mục tiêu đề ra, Bộ sẽ đề nghị Chính phủ quy rõ trách nhiệm và có biện pháp xử lý đối với các địa phương, các Bộ, trong đó có Bộ TN&MT”.

            Nguyên nhân gây chậm trễ trong thời gian qua, theo Bộ trưởng Quang, chủ yếu do nguồn gốc đất phức tạp, thiếu nhân lực, thủ tục còn phiền hà và tình trạng nhũng nhiễu từ cán bộ Văn phòng đăng ký đất đai. Bên cạnh đó vấn đề kinh phí cũng ảnh hưởng lớn đến tiến độ cấp GCN. Đặc biệt còn một nguyên nhân quan trọng khác là thiếu sự quyết tâm của Lãnh đạo các tỉnh và Sở TN&MT ở một số địa phương.

            Về lý do gây nhũng nhiễu của cán bộ phụ trách, Bộ trưởng Quang cho rằng, việc thẩm định hồ sơ, cấp GCN là công việc phức tạp. Mặt khác, do thiếu cán bộ ở các Văn phòng đăng ký nên cán bộ phải gồng mình làm việc, song không có chế độ chính sách đãi ngộ gì nên dẫn đến thực trạng cán bộ kém nhiệt tình làm việc, ngâm hồ sơ để vòi vĩnh, gây nhũng nhiễu. Đây là một thực tế cần sớm khắc phục.

            “Nên chăng cần có cơ chế cho sử dụng khoản thu từ lệ phí cấp GCN và dành một phần hỗ trợ cho người trực tiếp làm thủ tục thẩm định và cấp GCN. Đối với các trường hợp nhũng nhiễu, ngâm hồ sơ, Bộ đề nghị UBND các tỉnh và Sở TN&MT kiểm tra thường xuyên và kiên quyết xử lý, kể cả các trường hợp làm thủ tục chậm nếu không có lý do chính đáng cũng bị xử lý nghiêm” – Bộ trưởng Quang nêu quan điểm.

            Trong thời gian tới, Bộ tiếp tục yêu cầu các địa phương rà soát số lượng diện tích cấp giấy còn tồn đọng để giao chỉ tiêu đến từng huyện, xã. Bên cạnh đó sẽ tiếp tục ban hành quy định giải quyết các trường hợp vướng mắc trong cấp GCN… Ngoài ra, Bộ sẽ đề nghị Chính phủ dành một khoản kinh phí khoảng 3 nghìn tỷ đồng hỗ trợ các tỉnh đo vẽ hồ sơ địa chính làm căn cứ cho cấp GCN.

            Đối với thực trạng “dự án treo”, người đứng đầu Bộ TN&MT cho biết đến cuối năm 2012, các địa phương như Hà Nội, TP.HCM, Long An, Tây Ninh…đã xử lý thu hồi gần 25 nghìn ha của 500 tổ chức, doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là con số rất nhỏ so với diện tích chậm đưa đất vào sử dụng ở các địa phương hiện nay.

            “Năm 2013 và những năm tiếp theo, Bộ vẫn yêu cầu các địa phương thực hiện Chỉ thị 134 của Thủ tướng Chính phủ. Có nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng này, trong đó giải pháp hiệu quả là sử dụng công cụ thuế đánh vào các trường hợp ôm đất” – Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang nhấn mạnh.



File đính kèm