I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Điện tử Chính phủ có bài Công bố các Luật, Pháp lệnh và Nghị quyết của Quốc hội. Ngày 14/12, thừa lệnh của Chủ tịch nước, Văn phòng Chủ tịch nước công bố tới báo giới 9 luật, 3 Nghị quyết của Quốc hội và 1 Pháp lệnh vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 4, khóa XIII.
Chín luật được công bố gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Điện lực; Luật Hợp tác xã; Luật Xuất bản; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật sửa đổi bố sung một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật Thủ đô; Luật Dự trữ quốc gia và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Luật sư.
Ba Nghị quyết gồm: Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn; Nghị quyết lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại.
Cuối cùng là Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Tại buổi công bố, đại diện các Bộ, ngành là cơ quan soạn thảo các văn bản pháp luật trên cũng giới thiệu những nét chính của các Luật, Nghị quyết và Pháp lệnh.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên Online có bài UBND tỉnh “né” thi hành án. Bài báo phản ánh: Hành trình cam go mới thắng kiện được UBND tỉnh theo phán quyết của tòa án nhưng đến thời điểm này, mọi chuyện cũng bằng không vì không có cơ quan nào cưỡng chế chính quyền thi hành án. Ông Đặng Đình Lạp ở 100 Trần Phú, Nha Trang (Khánh Hòa) được TAND tối cao xử thắng kiện quyết định hành chính của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, nhưng bản án “có hiệu lực thi hành ngay” chẳng những không được thi hành theo quy định của pháp luật mà trái lại, bên thắng kiện còn “bầm dập” hơn.
Mới đây, Văn phòng Chính phủ tiếp tục có công văn gửi UBND tỉnh Khánh Hòa, truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao Thanh tra Chính phủ kiểm tra làm rõ trách nhiệm của UBND tỉnh Khánh Hòa trong việc thực hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng cũng chưa thấy kết quả gì.
Theo hồ sơ, ông Lạp nguyên là giáo viên dạy tại Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật không quân (đóng tại Nha Trang). Năm 1984, ông được nhà trường cấp một căn hộ (41 m2) tại trạm khách T25 khu 100 Trần Phú, Nha Trang. Tháng 6.1994, nhà trường bán thanh lý cho ông Lạp căn hộ trên, cùng số đất còn lại trong khuôn viên, với tổng diện tích cả nhà và đất là 120 m2. Gia đình ông Lạp đã ở yên ổn từ đó cho đến năm 2000, ông đến Sở Địa chính (nay là Sở TN-MT) làm thủ tục xin đăng ký sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Sở Địa chính lúc bấy giờ đã cử người xuống tận nơi để xem thực địa cũng như các văn bản liên quan đến thửa đất mà ông Lạp đang ở và thấy rằng toàn bộ diện tích đất này của ông Lạp là không có tranh chấp, vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà là không bị vướng mắc gì. Tuy nhiên, UBND tỉnh quyết định thu hồi một phần diện tích đất của ông để cấp cho hai hộ khác. Thấy bất công nhưng khiếu nại hoài không được, ông Lạp đã khởi kiện quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh ra tòa hành chính.
Tại phiên xử sơ thẩm, TAND tỉnh Khánh Hòa đã bác đơn kiện của ông Lạp. Trong thời gian án chưa phát sinh hiệu lực, Sở TN-MT tiến hành lập đoàn cưỡng chế thi hành quyết định, đưa lực lượng đến giăng dây đóng cọc chia lô. Vì quá căng thẳng, ông Lạp đã đột quỵ, người nhà phải đưa ông đi cấp cứu. Sợ ông Lạp chết, đoàn cưỡng chế cũng tự giải tán ra về.
Khi ông Lạp kháng cáo lên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử của TAND tối cao tại Đà Nẵng trong phiên xử ngày 20.3.2009 đã lật ngược bản án, tuyên hủy quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa về việc thu hồi đất của ông Lạp. Theo quy định, án phúc thẩm là “có hiệu lực thi hành ngay”, các bên đều không còn quyền kháng cáo, thế nhưng bên thua kiện vẫn không chấp hành án mà tiếp tục khiếu nại lên Chánh án TAND tối cao xin xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Đầu năm 2010, TAND tối cao đã trả lời “không có căn cứ để xem xét” nhưng đến nay mọi chuyện vẫn chưa dừng lại.
2. Báo Công an nhân dân có bài Truy tố nguyên Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự huyện Đắk G'Long. Bài báo phản ánh: Ngày 12/12, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (Viện KSNDTC) đã ra Văn bản số 4420/VKSTC-V1A gửi Viện KSND huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông để ra cáo trạng truy tố các bị can trước tòa theo thẩm quyền trong vụ án hình sự xảy ra tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk G'Long.
Cơ quan điều tra, Viện KSNDTC đã đề nghị truy tố hai bị can gồm: Hồ Anh Từ, trú tại phường Nghĩa Đức, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, nguyên chấp hành viên, nguyên Chi Cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk G'Long, tỉnh Đắk Nông và Nguyễn Đức Quang, trú tại phường Nghĩa Phú, thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, nguyên chuyên viên dưới quyền của Từ, về tội "Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản" theo điều 280, Bộ luật Hình sự.
Theo kết quả điều tra, Hồ Anh Từ và Nguyễn Đức Quang được giao thụ lý thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại số 09/2010/QĐST-DS ngày 30/8/2010 của tòa án nhân dân huyện Đắk G'Long. Trong quyết định nêu trên, người phải thi hành án là anh Trần Văn Nam trả cho bà Trần Thị Liên số tiền hơn 99 triệu đồng.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, Từ đã chỉ đạo Quang nhận trước 13% số tiền bà Liên được nhận cùng tiền bồi dưỡng ngoài. Đến 4/1/2011, anh Trần Văn Nam đã mang nộp đủ số tiền hơn 99 triệu đồng trên để trả cho bà Liên. Hai đối tượng này đã nhiều lần nhận tiền từ bà Liên tổng cộng 24 triệu đồng. Số tiền này, Hồ Anh Từ thụ hưởng 13 triệu đồng, Nguyễn Đức Quang được chia 11 triệu đồng.
3. Báo Tuổi trẻ Online có bài “Chạy” 4 phường không sao y được giấy tờ nhà. Bài báo phản ánh lời kể của bạn đọc Nguyễn Mậu Dao (phường An Phú, quận 2, TP.HCM): Chiều 4-12 tôi đã phải chạy lòng vòng qua UBND của bốn phường ở quận 2, TP.HCM nhưng vẫn không thể sao y được giấy chủ quyền nhà.
Có việc phải sao y chứng thực giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất (gọi là giấy chủ quyền nhà) của một căn nhà ở Q.Tân Bình (TP.HCM), khoảng 14g, tôi đến UBND P.An Phú, nơi tôi đang ở, để yêu cầu chứng thực sao y giấy chủ quyền căn nhà trên. Nhân viên của phường cho biết không nhận hồ sơ do không có người ký, các lãnh đạo UBND phường đã đi họp và yêu cầu tôi liên hệ với UBND các phường lân cận để sao y.
Khi tôi đến UBND P.Bình An, người bảo vệ kiêm giữ xe nói: “Nếu anh đi sao y chứng thực thì không có người giải quyết bởi lãnh đạo UBND phường hôm nay đi vắng hết”.
Nhưng anh bảo vệ vẫn hướng dẫn tôi vào liên hệ với bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ của phường này và không ghi vé xe cho tôi (anh nghĩ tôi sẽ ra về ngay bởi không có người giải quyết hồ sơ). Thật vậy, nhân viên văn phòng của P.Bình An cũng trả lời: “Lãnh đạo phường đi vắng hết, mời anh sang các phường lân cận chứng thực”.
Vì cần sao y giấy tờ gấp nên tôi lại chạy xe đến UBND P.Bình Khánh. Bãi giữ xe của P.Bình Khánh rất đông, xe để tràn ra đường đi ở cổng. Một dân phòng giữ xe cảnh báo trước: hôm nay lãnh đạo phường họp hết rồi, không giải quyết chứng thực sao y. Nhân viên văn phòng của P.Bình Khánh cũng thông báo với tôi là lãnh đạo UBND phường đã bận họp hết, không có người ký.
Nghĩ chắc hôm nay mình không may mắn, tôi dùng chút lòng kiên nhẫn cuối cùng chạy xe đến UBND P.An Khánh đề nghị chứng thực bản sao y. May quá, cô nhân viên phường tươi cười mời tôi ngồi ghế đợi, nhanh nhẹn làm động tác đối chiếu bản sao với bản chính, đóng con dấu to ghi ngày tháng, UBND phường chứng thực... lên những bản photo giấy chủ quyền nhà rồi ôm hồ sơ lên lầu.
Nhưng tôi thất vọng lần nữa khi cô nhân viên thông báo: “Hồ sơ của anh không được chứng thực”. Tôi vào phòng tiếp công dân của phường An Khánh và được gặp chủ tịch UBND phường để khiếu nại. Ông này yêu cầu tôi về UBND phường nơi căn nhà tọa lạc để chứng thực sao y chứ nhất quyết không chịu chứng thực mặc dù tôi có đầy đủ giấy tờ.
Chủ tịch UBND P.An Khánh cho rằng do không biết tình trạng căn nhà trên như thế nào, nếu nhà đã bị giải tỏa rồi thì không chứng thực sao y giấy chủ quyền được. Tôi lý luận không xong, chuyển sang năn nỉ nhưng ông chủ tịch UBND phường cũng nhất quyết không chứng thực cho tôi.
Sau đó tôi đến UBND P.19, Q.Bình Thạnh thì được chứng thực sao y mà không gặp rắc rối gì.
4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Vụ bán gần 1.000 ha rừng của Nhà nước sai quy định tại Quảng Trị: Cần hủy toàn bộ hợp đồng mua bán rừng trái quy định. Bài báo phản ánh: Được biết, tháng 7-2012, lãnh đạo tỉnh Quảng Trị đã chỉ đạo cho Ban quản lý rừng 661 huyện Gio Linh bán 385 ha rừng thuộc loại nói trên cho Cty TNHH Minh Quang Thành có trụ sở tại huyện Vĩnh Linh với giá 890 triệu đồng.
Ngày 15-11, báo PL&XH có bài “Bán rừng Nhà nước sai quy định”, phản ánh việc Ban dự án rừng 661 huyện Gio Linh vừa bán 120 ha rừng dự án 661 và 327 của Nhà nước tại xã Linh Thượng, huyện Gio Linh với giá rẻ hơn bán củi. Lập tức, người dân địa phương tiếp tục gửi đến PV báo PL&XH nhiều thông tin chỉ ra rằng việc bán rừng của Nhà nước sai quy định này có sự “tiếp tay” của lãnh đạo tỉnh Quảng Trị với hàng trăm ha chứ không dừng lại như báo nêu?
Được biết, tháng 7-2012, lãnh đạo tỉnh Quảng Trị đã chỉ đạo cho Ban quản lý rừng 661 huyện Gio Linh bán 385 ha rừng thuộc loại nói trên cho Cty TNHH Minh Quang Thành có trụ sở tại huyện Vĩnh Linh với giá 890 triệu đồng.
Sau khi trúng thầu, doanh nghiệp này đã chia nhỏ bán cho rất nhiều chủ khai thác với số tiền hơn 20 triệu đồng/ha.
Anh Trần Quang Báo, trú tại huyện Gio Linh, đã mua 86 ha rừng với giá 1,7 tỷ đồng trong tổng số 385 ha rừng của một người có tên là Thủy, ở huyện Đông Hà mua lại từ Cty Minh Quang Thành.
Trả lời vấn đề trên, ông Nguyễn Quang Trinh, Phó Chủ tịch UBND huyện Gio Linh cho biết: “Huyện không hề bán số rừng này. Huyện chỉ làm theo chỉ đạo của tỉnh là cho phép chỉ định thầu bán số rừng nói trên. Nói là chỉ đạo cho huyện đứng ra chỉ định thầu, song tỉnh cũng đã có công văn ấn định “bắt” huyện phải chỉ định cho Cty Minh Quang Thành được mua (?)”.
Mặt khác, ông Trinh cho rằng, Ban dự án rừng 661 là của tỉnh lập ra và quản lý, huyện chỉ có chức năng giám sát về mặt Nhà nước. Khi Ban dự án 661 tổ chức thẩm định đấu giá, không báo cáo cho huyện nên huyện cũng không biết. Trả lời là vậy, song ông Trinh lại nói: “Chúng tôi muốn có ý kiến trong việc này thì tỉnh cũng không nghe. Sở dĩ như vậy là do thẩm quyền của việc bán rừng trên thuộc tỉnh quản lý” (?)
Trở lại vấn đề Ban dự án 661 thuê Cty dịch vụ đấu giá Đất Việt (có trụ sở tại huyện Đông Hà, tỉnh Quảng Trị) đứng ra tổ chức đấu giá số rừng nói trên, một cán bộ Sở Tư pháp tỉnh Quảng Trị cho biết, quy trình tổ chức đấu giá của Cty trên thực hiện là hoàn toàn trái với quy định đấu giá của pháp luật. Theo đó, ngày 27-11, lãnh đạo Sở Tư pháp tỉnh Quảng Trị đã có công văn và trực tiếp chỉ đạo cán bộ đến Cty dịch vụ đấu giá Đất Việt để kiểm tra lại toàn bộ thủ tục đấu giá rừng của Nhà nước nói trên. Cùng ngày, huyện Gio Linh cũng đã cử hai đoàn cán bộ gồm nhiều cơ quan tiến hành thực tế và đo đạc, kiểm tra toàn bộ số rừng đang được khai thác và tổ chức đấu giá vừa qua để có biện pháp xử lý.
Lãnh đạo huyện Gio Linh cho biết thêm, hiện số rừng 385 ha “bị” tỉnh bán trên chưa thể cho ngừng được vì cấp thẩm quyền của huyện không cho phép?
Trước những sự việc này các cơ quan chức năng tỉnh Quảng Trị cần sớm chấn chỉnh những việc làm sai trái trên. Đặc biệt, cần thiết phải cho hủy toàn bộ hợp đồng mua bán rừng sai quy định với giá rẻ mạt nhằm khắc phục hậu quả và bảo vệ tài sản cho Nhà nước, nhân dân.
5. Báo Nông nghiệp Việt Nam có bài Chuyện dân tộc ít người nhất Việt Nam. Bài báo phản ánh: Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, người Si La là một trong 5 dân tộc ít người nhất Việt Nam. Ở cực Tây Tổ quốc có một bản người Si La sinh sống ở xã Chung Chải (huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên).
Vào bản Nậm Sin, thủ phủ của người Si La, bây giờ đã có đường xe máy, nhưng cuộc hành trình vẫn còn lắm gian nan. Chủ tịch xã Chung Chải Pờ Xè Chừ nói rằng phải đến năm 2006, nhờ dự án bảo tồn dân tộc Si La nên mới có đường đi xe máy vào bản, còn trước đó Nậm Sin là một thế giới hoàn toàn tách biệt với bên ngoài. Nậm Sin nằm ở khu vực biên giới khó khăn nhất của huyện Mường Nhé, cách trung tâm huyện gần 40 cây số, ngày trước, mỗi lần có việc vào Nậm Sin phải đi bè qua sông Đà, sau đó đi bộ xuyên rừng mấy cây số nữa mới tới nơi.
Bản Nậm Sin có 41 hộ thì có đến 40 hộ nghèo. Cuộc sống dựa hoàn toàn vào 3,9 ha lúa nước và 27,1 ha nương. Cho đến nay người Si La ở Nậm Sin chưa có ai được đi học đại học hay cao đẳng cả. Trong bản tổng hợp tình hình các dân tộc của Phòng Văn hóa Dân tộc huyện, hầu hết những con số thống kê ở cột dành cho người Si La rất đáng lo ngại. Học sinh mầm non 15 em, học sinh tiểu học 27 em, học sinh trung học cơ sở 20 em, học sinh học đến cấp 3 chỉ có duy nhất một em.
Trái ngược với những con số nghèo nàn về giáo dục, số thống kê về tảo hôn, hôn nhân cận huyết của người Si La ở Nậm Sin rất “hoành tráng”. 41 hộ dân nhưng có đến 70% là tảo hôn, gần 50% hôn nhân cận huyết. Ông Thái giải thích rằng, quá khứ sống trên rừng núi, tách biệt với thế giới bên ngoài khiến người Si La hay che giấu gốc tích của dân tộc mình, ít giao tiếp với các dân tộc khác nên thực trạng hôn nhân cận huyết hết sức phổ biến. Cũng vì hôn nhân cận huyết mà thể trạng người Si La yếu, bệnh tật nhiều. Định cư ở Nậm Sin từ năm 1973, gần 30 rồi nhưng bản Nậm Sin chỉ tăng được có 20 hộ. Tính bình quân, mỗi năm chỉ có một đứa trẻ được sinh ra, còn đám cưới thì 3-4 năm mới có một lần. Đã thế Nậm Sin bây giờ vẫn còn nhiều người nghiện hút. Thống kê của phòng dân tộc huyện, vẫn còn đến 70% đàn ông ở nậm Sin còn làm bạn với bàn đèn.
6. Báo Điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông có bài “Sính” chồng ngoại và những bi kịch đau lòng. Bài báo phản ánh: Đã có nhiều bi kịch về những cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc, tuy nhiên hiện nay “làn sóng” lấy chồng ngoại mang theo giấc mơ đổi đời không chỉ cho mình, mà còn cả gia đình vẫn được nhiều cô gái miền Tây theo đuổi.
Lấy chồng nước ngoài vẫn đang là nhu cầu và lựa chọn của khá nhiều phụ nữ ở ĐBSCL. Đã có hàng chục ngàn cô gái tìm thấy được bến đỗ bình yên trên quê hương của chồng. Nhưng cũng có không ít những kết cục đau lòng mà các cô dâu Việt phải gánh chịu nơi đất khách quê người. Tuy nhiên, không vì thế mà phong trào đi lấy chồng nước ngoài của phụ nữ miền Tây giảm bớt.
Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Sở Tư pháp tỉnh Hậu Giang trừ thứ 7 và Chủ nhật, còn ngày nào cũng luôn có hàng chục người đến làm hồ sơ kết hôn với người nước ngoài. Thông qua mai mối, các cô gái đến đây để hoàn thành các thủ tục kết hôn với những người chồng ngoại quốc mà chưa từng gặp mặt.
Trao đổi với ông Bé, người làm thống kê của ngành Tư pháp các tỉnh, thành ĐBSCL chúng tôi được biết, từ năm 2006 đến nay có đến 70.000 cô gái lấy chồng nước ngoài. Riêng ở tỉnh Hậu Giang, con số này đã là 10.000 người, đây một tỉ lệ khá cao so với toàn vùng.
“Trong nước, trước hôn nhân người ta thường tìm hiểu xem có về sống chung được với nhau không, còn kết hôn với người nước ngoài không có thời gian mà tìm hiểu. Bởi vậy cô dâu Việt thường là thụ động, không có thông tin gì về chú rể ngoại”, ông Bé nói.
Hôn nhân không tìm hiểu, bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, tuổi tác, nên đã có nhiều trường hợp cô dâu Việt bị nhà chồng hành hạ, đánh đập dẫn đến những bi kịch đau buồn. Mới đây nhất, là tình cảnh của chị Võ Thị Minh Phương nguyên quán ở xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, vì mâu thuẫn gia đình với người chồng Hàn Quốc, chị đã ôm hai con nhảy lầu tự tử.
Trong thực tế, phần đông chị em phụ nữ lấy chồng nước ngoài là để thay đổi cuộc đời của họ thậm chí là của cả gia đình họ. Tuy nhiên, mấy trăm gia đình tại xã Hoà An (Hậu Giang) không phải hộ nào cũng có nhà cao cửa rộng nhờ con gái lấy chồng nước ngoài, không phải hộ nào con gái cũng hạnh phúc nơi đất khách quê người, mà trong đó chị Võ Thị Minh Phương là một điển hình.