I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Ngày làm việc thứ 20, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. Tiếp tục chất vấn các thành viên Chính phủ. Ngày 14-11, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII sang ngày làm việc thứ 20. Buổi sáng, các đại biểu QH làm việc tại hội trường, tiếp tục chất vấn các thành viên Chính phủ. Buổi chiều, các đại biểu QH thảo luận ở tổ về Dự án Luật Phòng, chống khủng bố và Dự án Luật Giáo dục quốc phòng-an ninh.
Trong phiên làm việc buổi sáng, tiếp tục chất vấn Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến.
Tại phiên chất vấn, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã tham gia trả lời về công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Phó Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ đã chỉ đạo liên tục vấn đề này trong thời gian qua. Ðến nay, hầu hết các tỉnh phía nam đã hoàn thành quy hoạch các cơ sở giết mổ gia súc và 80% nguồn thực phẩm tiêu thụ, như ở thành phố Hồ Chí Minh được kiểm soát và an toàn. Các địa phương khác đang xây dựng quy hoạch này và Chính phủ yêu cầu đến ngày 31-12-2012 phải xong. Về vấn đề mất an toàn trong rau, Phó Thủ tướng cho rằng, đây là vấn đề đang gây bức xúc cho xã hội. Các ngành chức năng đang xây dựng đề án với mục tiêu các xã, các cơ sở nông nghiệp không sản xuất rau không an toàn và thực hiện đề án này trong năm 2013, đi cùng với đó là triển khai chợ, điểm bán rau an toàn. Về vấn đề gà nhập lậu, Phó Thủ tướng cho biết, các ngành chức năng đang nỗ lực triển khai nhiều biện pháp, phấn đấu đến năm 2013, cơ bản ngăn chặn gà nhập lậu, không rõ nguồn gốc.
Phát biểu tổng kết phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng đề nghị, thời gian tới, ngành y tế cần tập trung vào các giải pháp trọng tâm, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác khám, chữa bệnh đi cùng với nâng cao đạo đức nghề nghiệp; quản lý tốt thuốc chữa bệnh từ khâu sản xuất, lưu hành, đồng thời thực hiện các biện pháp cần thiết để quản lý giá thuốc hiệu quả; thực hiện tốt chính sách BHYT, với mục tiêu đáp ứng tốt nhất nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân.
Sau phần chất vấn và trả lời chất vấn của Bộ trưởng Y tế, các đại biểu QH tiến hành chất vấn Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Trước khi trả lời chất vấn trực tiếp tại hội trường, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt Chính phủ trình bày Báo cáo giải trình thêm một số nội dung mà nhiều đại biểu quan tâm, chất vấn.
Phát biểu ý kiến tổng kết toàn bộ những phiên chất vấn và trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ, toàn bộ phiên chất vấn diễn ra một cách rất dân chủ, công khai, có sự theo dõi, giám sát của đồng bào, cử tri cả nước. Những câu hỏi của các vị đại biểu QH đặt ra hết sức thẳng thắn, xây dựng, đi vào trọng tâm những vấn đề lớn. Các câu trả lời của các thành viên Chính phủ cũng đi vào nội dung các câu hỏi và đã giải đáp được hầu hết các vấn đề đặt ra, đưa ra các kiến nghị cần thiết để tiếp tục giải quyết. Chủ tịch QH đề nghị, Chính phủ và các thành viên Chính phủ, các ngành hữu quan tiếp tục tổ chức thực hiện nội dung các chất vấn của đại biểu QH đã đặt ra một cách có kết quả trong thời gian tới.
Thay mặt QH, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng ghi nhận và đánh giá cao những cam kết của Thủ tướng Chính phủ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân của bản thân Thủ tướng và của tập thể Chính phủ trong việc khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành và tích cực phấn đấu để thực hiện thành công những kế hoạch công tác của Chính phủ, trước mắt là phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch năm 2012 và có kế hoạch để hoàn thành chỉ tiêu, mục tiêu mà QH đã đưa ra cho nhiệm vụ năm 2013.
Buổi chiều, các đại biểu QH thảo luận ở tổ về hai dự án luật: Luật Phòng, chống khủng bố và Luật Giáo dục quốc phòng-an ninh.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bảo đảm quyền bào chữa - Bài 2: LS chỉ có mặt “cho đủ tụ”?. Bài báo phản ánh: Có trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của tòa còn đóng dấu “Mật”, ảnh hưởng đến việc tìm hiểu vụ án của luật sư.
Theo đánh giá của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, ngay cả ở giai đoạn truy tố, xét xử, quyền bào chữa cho bị can, bị cáo cũng chưa được đảm bảo. Vai trò của luật sư còn mờ nhạt cũng bởi một phần do quy định chưa rõ ràng…
Trong bản đánh giá thực trạng đảm bảo quyền bào chữa, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã chỉ ra rất nhiều quy định của pháp luật không đề cập đến vai trò luật sư. Luật sư tham gia vụ án hình sự trong tư thế bị động và chưa được pháp luật đảm bảo quyền làm sáng tỏ vụ án. Vai trò của luật sư từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến khi xét xử còn mờ nhạt, ngoài nguyên nhân do cán bộ, cơ quan tố tụng làm khó thì mô hình tố tụng và quy định pháp luật cũng chưa rõ ràng.
Theo Liên đoàn Luật sư, trong giai đoạn truy tố hiện nay chưa có nhiều quy định cụ thể về sự tham gia của người bào chữa. Thực tiễn tố tụng cho thấy nhiều hoạt động của VKS như tiến hành phúc cung, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định tư pháp… không có sự tham gia của người bào chữa. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 156 BLTTHS quy định điều tra viên, kiểm sát viên có quyền tham dự giám định nhưng phải thông báo cho người giám định biết trước, trong khi đó lại không đề cập đến luật sư...
Bên cạnh đó, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của VKS cũng không được thông báo cho người bào chữa. Phần lớn các khiếu nại, tố cáo của người bào chữa đều không được VKS trả lời hoặc giải quyết. Tương tự, trong giai đoạn xét xử, luật sư cũng không được tòa thông báo về quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Thậm chí có trường hợp quyết định trên còn đóng dấu “Mật”, ảnh hưởng đến việc nghiên cứu, tìm hiểu vụ án của người bào chữa...
Một vướng mắc khác trong giai đoạn xét xử là BLTTHS không quy định các trường hợp người bào chữa được quyền chủ động đề xuất người làm chứng, chứng cứ cũng như triệu tập những người liên quan khác có mặt tại phiên tòa nếu không được sự chấp thuận của tòa. Luật cũng chưa thừa nhận chứng cứ do luật sư thu thập để làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội cũng như chưa quy định về quyền đánh giá chứng cứ của luật sư.
Song song đó, Điều 218 BLTTHS quy định chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Nội hàm của khái niệm “không liên quan đến vụ án” trên thực tế cũng được hiểu, diễn dịch khác nhau khi chủ tọa cắt ý kiến của người bào chữa. Chất lượng và kết quả tranh tụng vì vậy mà bị hạn chế… Về chuyện này, khoản 3 Điều 224 BLTTHS (quy định về nội dung bản án) cũng chưa cụ thể hóa được chủ trương nêu trong Nghị quyết 08 ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị, yêu cầu phán quyết của tòa phải xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Mặt khác, Điều 58 BLTTHS quy định luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của tòa nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Tuy nhiên, quy định lại chưa nói rõ quyền này của luật sư là độc lập hay phụ thuộc vào ý chí của bị cáo hay người đại diện hợp pháp của bị cáo.
Ngoài ra, ở phiên tòa phúc thẩm, Điều 264 BLTTHS đề cập tới quyền bổ sung chứng cứ mới hoặc bổ sung tài liệu, đồ vật của người bào chữa nhưng chưa quy định rõ về trình tự điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Ở phiên họp giám đốc thẩm, theo Điều 280 BLTTHS, khi xét thấy cần thiết, tòa triệu tập người bị kết án, người bào chữa... Điều 282 BLTTHS cũng quy định những người được triệu tập được trình bày ý kiến… Tuy nhiên, rất hiếm hoi có việc luật sư được tham gia và có cơ hội trình bày ý kiến bào chữa tại các phiên họp giám đốc thẩm.
2. Báo Dân trí có bài Cần Thơ: Hơn 2 năm ở trọ vì bị cán bộ thi hành án “cản trở” xây nhà. Bài báo phản ánh: Gia đình bà Nguyễn Việt Hằng cho gia đình ông Đinh Hoàng Minh mượn một phần đất để sử dựng. Khi bà Hằng lấy lại để xây nhà thì ông Minh không đồng ý trả mà còn đòi hỗ trợ tiền.
Theo bà Nguyễn Việt Hằng cho biết, khoảng tháng 3/2010, bà Hằng được ông Nguyễn Việt Hùng chuyển nhượng quyền sử dụng 67,42m2 đất và một căn nhà diện tích 40,29m2 tại địa chỉ trên. Tháng 4/2010, bà Hằng được cấp GCN QSDĐ và quyền sở hữu nhà ở. Đến tháng 6/2010, bà Hằng được UBND quận Ninh Kiều cấp giấy phép xây dựng nhà ở mới. Sau khi có giấy phép, bà Hằng tiến hành làm các thủ tục và mua vật tư để cất nhà như kế hoạch.
Sau khi tháo dỡ nhà cũ và trước khi xây nhà mới, bà Hằng có thông báo cho hai hộ kế cận là hộ ông Đinh Văn Minh và hộ bà Lê Thị Ngọc Ảnh trả lại một phần diện tích đất được bà cho mượn. Hộ bà Ảnh đã tháo dỡ trả lại phần đất sử dụng. Tuy nhiên, phía ông Minh đợi đến ngày bà Hằng dọn nhà, đập phá nhà cũ, mua vật tư… mới có ý kiến là không chịu tháo dỡ trả đất.
Theo bà Hằng, điều đáng nói ở đây, phía ông Minh thừa nhận phần đất mà ông đang sử dụng là của bà nhưng ông này vẫn không chịu trả lại. Bà Hằng bức xúc: “Chẳng những ông Minh không tháo dỡ mà còn đòi tôi trả cho ông 50 triệu đồng nói là tiền hỗ trợ sửa lại toilet sau khi tháo dỡ”.
Bà Hằng cho biết, mặc dù sau đó vụ việc được đưa ra hòa giải tại UBND phường An Nghiệp nhưng phía ông Minh một mực đòi cho bằng được 50 triệu đồng. Thấy việc “vòi tiền” quá vô lý cũng như ông Minh cố tình cản trở việc xây nhà đã làm ảnh hưởng đến đời sống cũng như thiệt hại vật chất, bà Hằng quyết định kiện ra tòa.
Trao đổi với PV Dân trí, bà Hằng bức xúc cho rằng, được biết ông Minh là Phó Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thủy (TP Cần Thơ), ông Minh nắm rất kỹ luật pháp nhưng hành vi của ông Minh đối với gia đình bà là không thể chấp nhận được.
Sau khi bà Hằng gửi đơn kháng án (9/2011), từ ngày 29/6/2012, TAND TP Cần Thơ tiếp tục đưa ra xét xử phiên phúc thẩm nhưng cho đến nay qua 3 lần đưa ra xét xử nhưng phiên tòa phúc thẩm vẫn “bật vô âm tín”, chưa có kết luận gì. Thiết nghĩ, cơ quan tố tụng, xét xử TP Cần Thơ cần sớm giải quyết vụ việc một cách thỏa đáng.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Trúng đấu giá, hơn hai năm chờ giao đất. Bài báo phản ánh: Mua trúng đấu giá từ năm 2010 và đã được cấp chủ quyền nhưng đến nay người chủ vẫn chưa được cơ quan thi hành án cưỡng chế giao đất.
Đó là tình cảnh của bà Bùi Thị Ngọc Mai (xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ, TP.HCM). Tháng 7-2010, bà Mai mua trúng đấu giá lô đất hơn 130 m2 ở địa phương với giá hơn 173 triệu đồng. Ngày 2-9-2011, sau khi nộp đủ tiền, bà Mai được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, đến giờ thì lô đất đang được người chủ cũ là hộ ông B. sử dụng.
Đầu năm 2009, theo quyết định của tòa thì vợ chồng ông B. phải trả nợ cho bà Mai hơn 45 triệu đồng nhưng họ không thi hành án (THA). Sau đó, cơ quan THA huyện kê biên và bán đấu giá lô đất của họ. Bà Mai là người đăng ký mua và trúng đấu giá.
Bà Mai trình bày: “Trên phần đất này có một căn nhà và hộ ông B. cam kết sẽ tháo dỡ nhà để giao đất nhưng đến nay họ chưa thực hiện. Họ cứ viện lẽ nhà có đám cưới, đám giỗ… để lùi ngày giao đất và lúc đầu tôi cũng đồng ý vì nghĩ tình làng nghĩa xóm. Nhưng rồi họ không thực hiện cam kết nên buộc lòng tôi phải đề nghị cơ quan THA cưỡng chế”.
Đầu tháng 9-2012, Chi cục THA dân sự huyện Cần Giờ đã ra quyết định cưỡng chế ông B. THA để giao đất cho bà Mai. Song ông B. đã khiếu nại quyết định kê biên, bán đấu giá tài sản của chi cục nên cơ quan này đã dừng việc cưỡng chế.
Ông Nguyễn Hồng Quang, Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự huyện Cần Giờ, cho biết: “Để đảm bảo quyền lợi của các bên, chúng tôi buộc phải chờ kết quả giải quyết khiếu nại của Cục THA dân sự TP.HCM rồi mới xử lý tiếp”.
4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Khó khăn khi chứng thực chữ ký cho 2 người trở lên trong cùng một văn bản. Bài báo phản ánh: Khi chứng thực chữ ký, cán bộ tư pháp xã cho hay, chỉ chứng thực được 1 người theo mẫu chứng thực nêu trên. Ông M đã yêu cầu UBND xã chứng thực bản cam kết của hai vợ chồng thì bị từ chối.
Bạn đọc Lê Thị Thúy (lethuyxm@yahoo.com.vn), cán bộ Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có thư đến báo PL&XH chia sẻ về những bất cập khi chứng thực chữ ký theo mẫu dấu qui định tại Thông tư 03/2008/TT-BTP.
Chị Thúy nêu, Chính phủ có Nghị định 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, thay thế Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 8-12-2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực. Tiếp đó, ngày 20-1-2012, cơ quan này ban hành Nghị định số 04/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 79, trong đó có mở rộng thẩm quyền chứng thực của Phòng Tư pháp cấp huyện. Để thực hiện nghị định trên, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25-8-2008 hướng dẫn về mẫu chứng thực chữ ký.
Nhưng khi áp dụng vào thực tế xảy ra tình huống sau, ông Nguyễn Văn M bị mất “sổ đỏ”. Vợ chồng ông đã đi làm thủ tục xin cấp lại. Tuy nhiên, việc mất sổ không có người làm chứng nên ngoài các giấy tờ qui định thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất yêu cầu vợ chồng ông M phải làm bản cam kết và chứng thực chữ ký của 2 vợ chồng để tránh trường hợp vợ chồng ông M có hành vi gian dối khi khai làm thủ tục cấp lại. Vì “sổ đỏ” chỉ mang tên ông M nên ông đã làm 1 bản cam kết chung của hai vợ chồng về việc mất “sổ đỏ” và vợ chồng ông không sang nhượng, thế chấp, tặng cho hoặc ủy quyền cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào dưới mọi hình thức và cùng ký tên trước mặt cán bộ tư pháp xã.
Khi chứng thực chữ ký, cán bộ tư pháp xã cho hay, chỉ chứng thực được 1 người theo mẫu chứng thực nêu trên. Ông M đã yêu cầu UBND xã chứng thực bản cam kết của hai vợ chồng thì bị từ chối. Lý do là mẫu có sẵn như vậy rồi, không thể viết thêm vào được. Ông M ngậm ngùi cầm tờ cam kết nộp Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cũng bị khước từ vì chỉ mình ông M cam kết chưa đủ (tài sản chung nên phải có cam kết của vợ chồng).
Như vậy, nếu vợ chồng ông M làm riêng 2 tờ cam kết có hợp lệ không khi “sổ đỏ” chỉ đứng tên chồng; phải xuất trình giấy tờ gì để chứng minh tài sản chung của hai người khi chứng thực chữ ký cho vợ ông M; UBND xã có thẩm quyền phân định đây là tài sản chung hay tài sản riêng để chứng thực vào bản cam kết của người vợ hay không?
“Đây là bất cập khi chứng thực chữ ký cho 2 người trở lên trong cùng một văn bản. Cũng vì mẫu dấu qui định không rõ ràng đã gây khó cho người dân. Theo tôi, Thông tư 03 cần có hướng dẫn chi tiết hơn để tạo thuận lợi cho người dân khi giao dịch” - chị Thúy viết.
5. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Đông Anh: Một người có hai vợ cùng “hợp pháp”. Bài báo phản ánh: Ông Nguyễn Huy Tuấn (SN 1956, trú tại thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Hà Nội) cùng lúc sở hữu 2 giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cùng “hợp pháp”.
Sự việc khá “dài dòng” bởi ông Tuấn có đến 4 lần kết hôn, với ba người vợ. Đầu tiên, năm 1975, ông Tuấn làm thủ tục kết hôn với bà Nguyễn Thị Vân (trú tại xã Nguyên Khê, huyện Đông Anh) tại UBND xã Nguyên Khê và sinh được 2 người con gái. Do không hợp nhau, năm 1982, hai người ly hôn. Một năm sau, ông Tuấn đăng ký kết hôn với bà Đặng Thị Bình (trú tại xã Đông Hội, huyện Đông Anh) tại UBND xã Đông Hội nhưng chung sống không bao lâu thì hai người ly thân.
Năm 2001, ông Tuấn tiếp tục đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thị Sự (trú tại thôn Du Ngoại, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh) tại UBND xã Xuân Canh. Đến năm 2005 thì bà Sự qua đời. Ngày 15-2-2012, bà Nguyễn Thị Vân (người vợ đầu đã ly dị) và ông Tuấn lại đến UBND xã Xuân Canh xin đăng ký kết hôn và được UBND xã này cho đăng ký. Vậy là chưa ly dị vợ hai, ông Tuấn đã được chính quyền “cho phép” cưới vợ ba hợp pháp, và sau khi bà vợ ba chết, ông Tuấn lại tiếp tục được cưới vợ lần thứ tư, trong khi cuộc hôn nhân thứ hai vẫn đang tồn tại!?
Trong Sổ đăng ký kết hôn năm 2001 đang lưu trữ tại UBND xã Xuân Canh ghi ông Tuấn, bà Sự được UBND xã cấp đăng ký kết hôn lần thứ nhất, nhưng hồ sơ lưu cụ thể thì không còn. Dựa vào Sổ đăng ký kết hôn và cam đoan của ông Tuấn, ông Minh xác định ông Tuấn đủ điều kiện nên làm thủ tục và trình lãnh đạo xã Xuân Canh cấp đăng ký kết hôn cho hai người.
Sự việc “vỡ lở” do em trai và gia đình ông Tuấn làm đơn gửi đến UBND xã Xuân Canh, Phòng Tư pháp huyện Đông Anh cho rằng UBND xã Xuân Canh đã cấp đăng ký kết hôn trái pháp luật cho ông Tuấn, “tiếp tay” cho bà Vân “dụ dỗ” ông Tuấn cưới lại nhằm chiếm nhà đất…
Theo ông Minh, khi làm thủ tục đăng ký kết hôn cho ông Tuấn và bà Vân, ông Minh không biết đến quan hệ hôn nhân giữa ông Tuấn và bà Bình đang tồn tại vì năm 2008 mới nhận công tác tư pháp, nên không trực tiếp làm đăng ký kết hôn cho ông Tuấn và bà Sự, còn hồ sơ lưu trữ lại không đầy đủ. Tuy ông Tuấn là người gốc ở xã Xuân Canh, nhưng lại chuyển hộ khẩu sinh sống nơi khác, đến năm 1992 trở về xã Xuân Canh. Quá trình kết hôn trước đó của ông Tuấn, xã Xuân Canh không phải là nơi cấp xác nhận nên không biết được tình trạng hôn nhân. Do đó, theo ông Minh, nếu “ngắt đoạn” ra thì việc cấp kết hôn lần thứ 4 cho ông Tuấn là đúng luật!? Ông Minh cho biết thêm, ngay cả đăng ký kết hôn của ông Tuấn với bà Bình (vợ hai) cũng được ghi là ông Tuấn “kết hôn lần thứ nhất”!
Còn ông Nguyễn Huy Cảnh, Chủ tịch UBND xã Xuân Canh giãi bày: Cán bộ tư pháp trực tiếp làm đăng ký kết hôn cho ông Tuấn và bà Sự đã qua đời năm 2001, hồ sơ lưu thì lại thiếu tờ khai đăng ký kết hôn, nên không có cơ sở xác định ông Tuấn khi đó có khai về mối quan hệ hôn nhân với bà Bình hay không. “Có thể cán bộ tư pháp thời ấy đã làm sai, và sự tắc trách trong lưu trữ hồ sơ hộ tịch đã để lại hậu quả sai nối tiếp sau này. Hiện, UBND xã Xuân Canh đã báo cáo huyện Đông Anh và họp bàn hướng giải quyết vụ việc”, ông Cảnh nói.
Theo luật sư Trương Văn Hải, Đoàn LS Hà Nội, trong trường hợp này, vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn; Ủy ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội Phụ nữ… có quyền đề nghị VKS xem xét, yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Sau khi có phán quyết của Tòa, UBND xã Xuân Canh mới có cơ sở xóa đăng ký kết hôn của ông Tuấn, bà Vân trong Sổ đăng ký kết hôn. Hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật là hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng, quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn, tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, tài sản chung được chia theo thỏa thuận…
Điều đáng nói là với việc lưu trữ hồ sơ hộ tịch như thế này của xã Xuân Canh, trường hợp kết hôn của ông Tuấn liệu có phải là duy nhất?