I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Ngày làm việc thứ 18, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. Nghe báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri Ngày 12-11, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII sang ngày làm việc thứ 18, các đại biểu làm việc tại hội trường, chất vấn các thành viên Chính phủ. Trước khi tiến hành chất vấn, các đại biểu QH đã nghe báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ ba, QH khóa XIII; nghe Chính phủ báo cáo về việc thực hiện các nghị quyết của QH về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ hai và thứ ba, QH khóa XIII.
Ðầu giờ sáng, các đại biểu nghe báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ ba, QH khóa XIII do Trưởng ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ QH Nguyễn Ðức Hiền trình bày. Theo báo cáo, tại kỳ họp thứ ba, QH khóa XIII, Ủy ban Thường vụ QH đã nhận được 1.732 kiến nghị của cử tri cả nước. Nội dung kiến nghị của cử tri đề cập tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã quan tâm nghiên cứu, tiếp thu, giải quyết và trả lời khá đầy đủ, kịp thời kiến nghị của cử tri. Từ kết quả giải quyết và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri cho thấy, bước đầu thực hiện chủ trương cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của QH, công tác giải quyết và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri đã có nhiều chuyển biến, tiến bộ.
Trình bày báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện các nghị quyết của QH về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ hai và thứ ba, QH khóa XIII, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, ngay sau mỗi kỳ họp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ đã nghiêm túc chấp hành các Nghị quyết của QH, nhanh chóng nghiên cứu, cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và khẩn trương tổ chức thực hiện gắn với triển khai đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Theo chương trình, tại kỳ họp này, QH tiến hành chất vấn năm thành viên Chính phủ gồm: Bộ trưởng Công thương, Bộ trưởng Xây dựng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bộ trưởng Y tế và Thủ tướng Chính phủ.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Vietstock có bài Những vướng mắc trong thi hành quyết định của tòa án để TCTD thu hồi nợ. Bài báo phản ánh: Việc khởi kiện để thu hồi nợ đối với các TCTD là việc làm “cực chẳng đã” khi đã hết cách mà khách hàng vẫn chây ỳ. Thế nhưng mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên xử lý tài sản bảo đảm, nhưng trong quá trình thi hành bản án, quyết định nêu trên TCTD vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về việc yêu cầu người được thi hành án phải cung cấp các tài liệu liên quan đến điều kiện thi hành án của người phải thi hành án đã gây không ít khó khăn cho TCTD bởi lẽ: Đối với những cá nhân, tổ chức (là người phải thi hành án) đã không có mặt tại nơi cư trú, bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh… mà Tòa án các cấp đã quyết định xét xử vắng mặt thì việc xác minh điều kiện thi hành án đối với họ là rất khó khăn.
Ví dụ: TCTD muốn xác minh Công ty TNHH A (là người phải thi hành án) có nộp thuế tại cơ quan thuế hay không để biết khả năng tài chính và hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 73 Luật Quản lý thuế thì TCTD không phải là đối tượng được cơ quan thuế cung cấp thông tin nộp thuế của doanh nghiệp. Do vậy, Cơ quan thuế từ chối cung cấp thông tin cho TCTD.
Mặc dù Luật thi hành án dân sự năm 2008 có quy định TCTD có quyền làm đơn đề nghị cơ quan thi hành án (CQTHA) thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, nhưng trên thực tế việc xác minh theo đơn yêu cầu của TCTD không phải lúc nào cũng được thực hiện ngay. Với nhiều lý do khác nhau việc xác minh thường kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ thi hành án.
Ví dụ: Xác minh về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và việc đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký đất và nhà tại các địa phương thường mất nhiều thời gian. Cơ quan quản lý thông tin với nhiều lý do khác nhau thường chậm trong việc cung cấp thông tin. Việc cơ quan có thẩm quyền chậm cung cấp thông tin đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi hành án, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của TCTD.
Bên cạnh đó, TCTD còn gặp khó khăn, vướng mắc trong việc bán đấu giá tài sản để thu hồi nợ. CQTHA dân sự ký Hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với Tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp đã thông báo bán đấu giá nhưng không có người mua tài sản. Vấn đề đặt ra là xử lý tài sản đã được thông báo bán đấu giá nhưng không có người mua như thế nào?
Theo quy định tại Điều 104 Luật thi hành án dân sự thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày bán đấu giá không thành mà đương sự không yêu cầu định giá lại thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá đã định. Tuy nhiên, CQTHA dân sự lại có quan điểm khác nhau về việc giảm giá tài sản đưa ra bán đấu giá cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: sau 10 ngày kể từ ngày thông báo bán đấu giá mà không có người mua (không có người nộp hồ sơ tham gia đấu giá, không có người tham gia phiên đấu giá) thì phải coi là bán đấu giá không thành. Nếu các đương sự không yêu cầu định giá lại tài sản thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục đưa tài sản ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng: cần phải làm rõ trường hợp bán đấu giá không thành thì mới có cơ sở áp dụng Điều 104 Luật thi hành án dân sự để giảm giá tài sản. Đối với tài sản đã được Tổ chức bán đấu giá thông báo bán đấu giá nhưng không có người nộp hồ sơ tham gia đấu giá thì không được coi là bán đấu giá không thành vì trên thực tế Tổ chức bán đấu giá không mở phiên đấu giá vì không có người nộp hồ sơ tham gia đấu giá. Trường hợp này Chấp hành viên không được giảm giá tài sản để tiếp tục đưa ra bán đấu giá.
Hiện nay, Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp cũng chưa có hướng dẫn về vấn đề này nên việc hiểu và áp dụng pháp luật của CQTHA dân sự các cấp có sự khác nhau. Có Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản và tiếp tục đưa tài sản ra bán đấu giá. Tuy nhiên, cũng có Chấp hành viên không ra quyết định giảm giá tài sản mà vẫn đưa tài sản ra bán đấu giá với mức giá đã định. Trong nhiều trường hợp việc không giảm giá tài sản của CQTHA dân sự đã ảnh hưởng đến việc bán đấu giá tài sản, làm chậm quá trình thu hồi nợ của TCTD.
2. Báo Dân Việt có bài UBND xã thu lệ phí... đóng dấu. Bài báo phản ánh: Bạn đọc Thùy Trang ở xã Phú Điền, huyện Tân Phú, Đồng Nai phản ánh: UBND xã Tân Phú có chủ trương thu tiền để làm đường giao thông bê tông qua hình thức thu lệ phí từ những thủ tục hành chính.
Cụ thể, khi muốn làm giấy khai sinh, sơ yếu lý lịch, chứng thực các loại giấy tờ, người dân trong xã phải đóng 200.000 đồng/lần, nếu không đóng thì không giải quyết.
3. Trang tuanvietnam có bài 'Ở tạm' trên đất nước mình. Bài báo phản ánh: Các quy định về hộ tịch Việt Nam hiện nay lại vô hình dung chia công dân Việt Nam ra làm hai loại: công dân sống thường trú và công dân sống tạm trú, lưu trú.
Từ xa xưa, chỉ có xã hội chiếm nô thì người nô lệ không có quyền tự do cư trú, còn công dân tất cả các quốc gia đều có quyền tự do cư trú trên lãnh thổ của quốc gia mình. Thể hiện tinh thần tiến bộ đó, Điều 68 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 hiện hành quy định "công dân có quyền tự do đi lại và cư trú trong nước". Thế nhưng các quy định về hộ tịch Việt Nam hiện nay lại vô hình dung chia công dân Việt Nam ra làm hai loại: công dân sống thường trú và công dân sống tạm trú, lưu trú.
Hay nói cách khác, quy định này dẫn tới việc, nhiều người là công dân Việt Nam nhưng phải sống "tạm", sống "lưu" trên tổ quốc mình - cái tổ quốc mà cha anh và bao đời tổ tiên của anh đã đổ xương maú để gìn giữ. Họ phải sống tạm, sống lưu và khi hết hạn lại gặp nhà chức trách đăng ký gia hạn lưu trú; gia hạn lần này đến lần khác, gia hạn đến hàng chục năm, gia hạn hết cả cuộc đời, và khi đến đời con thì không được gia hạn nữa vì không có đăng ký khai sinh như trường hợp dưới đây.
Người con của họ băn khoăn tự hỏi mình có phải là công dân Việt Nam không? Vì họ không có khai sinh. Người con của họ tự trả lời: có lẽ mình là công dân Việt Nam vì theo quy định của pháp luật về hộ tịch thì bố mẹ mình đều là người Việt Nam thì mình sẽ là người Việt Nam.
Người con của họ băn khoăn tự hỏi mình có trách nhiệm đóng góp gì cho tổ quốc này không? Có lẽ là có nhưng không nhiều bằng người khác vì mình không được nhà nước coi là công dân có hộ khẩu thường trú mà mình là công dân hạng hai -hạng tạm trú, lưu trú hoặc thậm chí công dân không có tên trong bất kỳ danh sách nào của nhà chức trách.
Khái niệm hộ khẩu và các quy định bất hợp lý về hộ tịch ở Việt Nam đã làm cho bao người dân sống tạm bợ, điêu linh trên tổ quốc mình mặc dù đất nước đã được độc lập từ lâu, mặc dầu họ không ngu dốt, mặc dầu họ không có lỗi gì lớn, ngoài lỗi không có giấy khai sinh, không có hộ khẩu thường trú.
Trong số đó có một người đã được Tập san "Thông tin cải cách nền hành chính Nhà nước" của Viện nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước của Bộ Nội vụ số tháng 7 năm 2004, trang 19. Đó là chị Tuyết quê gốc ở Tây Ninh, sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong thư gửi ông Trần Thành Long, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, nhân dịp ông tiếp xúc cử tri, cháu Thân Trọng Nguyên đã viết (ngày 28-5-2004): "Cháu có đọc bài nói chuyện của ông trên báo. Cháu nghĩ ông có thể thông cảm nỗi bức xúc trong lòng cháu. Từ lúc chào đời, anh em cháu đã tạm trú trên đất nước mình; cho đến bây giờ hơn 20 năm, cháu vẫn không thật sự được làm một người công dân chính thức trên quê hương mình...
Cháu có hai anh em. Anh cháu sinh năm 1982, còn cháu sinh năm 1984. Cho đến nay chúng cháu vẫn chưa làm được giấy khai sinh. Cháu biết đây cũng là nỗi đau của mẹ cháu. Cháu đã hỏi cơ quan pháp lý...Nhưng ông ơi, tờ giấy xác nhận đã tạm trú 24 năm cũng không thể làm khai sinh cho chúng cháu được. Người xưa có câu "có tiền mua tiên cũng được" mà mẹ cháu không có tiền để mua cái quyền làm một người dân hợp pháp cho chúng cháu được."
Trong một lá thư khác, cháu Nguyễn Ngọc Thương viết (ngày 30-5-2004) viết: "Cháu sinh năm 1985, tạm trú ở 40/1B ấp 4 Lương Định Của, Q2, Thành Phố Hồ Chí Minh. Vì gia cảnh mà cha mẹ, anh chị em cháu không có hộ khẩu. Do vậy, ngay cả cái tên cháu đang mang cũng là cái tên vay mượn để được cắp sách tới trường như các bạn cùng lứa tuổi. Từ cấp 1, để cho cháu đi học, mẹ cháu đã mượn giấy khai sinh của con người cậu để cháu được đến trường... Để trở thành một người công dân thật sự khó quá ông ơi? Thủ tục hành chính giấy tờ với những gia đình vất vả kiếm sống như gia đình cháu sao cho đúng nghĩa?...Chị cháu sinh năm 1980, đã có gia đình và sinh một bé gái. Nhưng chị cháu cũng không thể nào khai sinh cho con chị vì bản thân chị không có mảnh giấy tờ tùy thân."
Hai trường hợp nói trên không ai dám nói rằng họ không phải là công dân Việt Nam, nhưng vì họ không có hộ khẩu thường trú, không phải mang "quốc tịch" của một tỉnh, thành cụ thể thì phải sống kiếp "lưu vong".
Không có hộ khẩu thường tại nơi mình cư trú còn gây biết bao phiền phức: con cái không được học trường công lập, học phí gấp đôi gấp 3; hoặc phải học trái tuyến đi xe đạp thì xa quá, đi xe máy thì chưa đủ tuổi; đăng ký điện thoại, xe máy, đăng ký kinh doanh, đăng ký kết hôn... Có những chiếc xe máy mang biển số của một tỉnh khác nhưng từ khi mua cho đến hàng chục năm sau thì nó chỉ một lần duy nhất lăn bánh trên tỉnh nhà lúc làm thủ tục đăng ký.
Theo Điều 68 Hiến pháp "công dân có quyền tự do đi lại, cư trú trong nước" thì có nghĩa họ có quyền sống bất kỳ nơi nào trên tổ quốc của họ. Và thời hạn sống bao lâu là do nhu cầu kinh tế, nhu cầu gia đình của họ. Tại sao chúng ta lại đặt ra chế độ tạm trú mặc dầu họ có nguyện vọng cư trú tại một địa phương nhất định và trên thực tế họ đã sống gần cả cuộc đời ở đó.
Ở các nước tiên tiến thì công dân có quyền tự do cư trú vì vậy, công dân hoàn toàn có quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống. Để thuận tiện cho việc quản lý thì khi đến cư trú tại một địa phương nhất định quá một khoảng thời hạn nhất định (thường khoảng 3 tháng), người dân phải đăng ký với nhà chức trách địa phương. Ở các nước đó không có khái niệm hộ khẩu, không có khái niệm tạm trú. Chỉ đối với một số công việc đặc biệt đòi hỏi sự gắn bó của người thực hiện công việc đó với địa phương[4] thì có thể đặt ra điều kiện đòi hỏi người thực hiện công việc đó đã cư trú tại địa phương một khoảng thời gian đủ dài.
Ngoài ra nhà nước không được đặt ra bất kỳ hạn chế nào đối với người dân vì lý do thời gian cư trú. Cách quy định này vừa tránh được những bức thư đau lòng nêu trên, vừa khuyến khích công dân tự do dịch chuyển để tìm kiếm việc làm mới phù hợp với mình, khuyến khích kinh tế phát triển, tăng cường giao lưu giữa các bộ phận dân cư trong cùng một quốc gia, góp phần giảm bớt khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
Thuận lợi trong việc đăng ký cư trú, không chỉ bảo đảm quyền hiến định của công dân, mà góp phần hạn chế hiện tượng người nhập cư sống không đăng ký, giảm bớt khó khăn cho các cơ quan điều tra khi xác đinh nhân thân của những người vi phạm pháp luật.
III-THÔNG TIN KHÁC
Báo Điện tử Chính phủ có bài Thực hiện Nghị định 71: Xử phạt xe không chính chủ, hiểu thế nào?. Bài báo phản ánh: Dư luận đang quan tâm về việc triển khai áp dụng xử phạt các vi phạm giao thông đường bộ theo quy định mới tại Nghị định 71/2012/NĐ-CP có hiệu lực từ 10/11/2012, trong đó có nêu việc xử phạt người điều khiển phương tiện mà không phải là chủ sở hữu phương tiện đó.
Nghị định 71/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 34/2010/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Theo đó, từ 10/11/2012 tăng mức xử phạt một số hành vi vi phạm giao thông đường bộ, trong đó có hành vi của chủ xe ô tô, xe máy không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định.
Trao đổi với phóng viên Cổng TTĐT Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải khẳng định: Về việc xử phạt vi phạm không chuyển quyền sở hữu phương tiện, thực chất Nghị định 71 không điều chỉnh về tính chất, loại hành vi vi phạm mà chỉ tăng mức phạt so với quy định cũ tại Nghị định 34/2010/NĐ-CP trước đây.
Bộ Giao thông vận tải cho biết thêm, quy định này đã qua 4 lần sửa đổi và đến Nghị định 71 cũng chỉ nâng mức phạt, còn việc quy định hành vi vi phạm và việc xử phạt vẫn áp dụng theo các quy định hiện hành.
Như vậy, nội dung Nghị định 71 không có quy định xử phạt người điều khiển xe không chính chủ, mà chỉ quy định xử phạt chủ phương tiện có hành vi không chuyển quyền sở hữu đúng quy định.
Bộ Giao thông vận tải phân tích: Nghị định 71 đã quy định rõ về hành vi và mức phạt, còn thủ tục và hình thức xử phạt được áp dụng theo quy định hiện hành của Bộ Công an.
Còn việc chuyển đổi sở hữu phương tiện cũng đã được quy định tại khoản 3, Điều 6, Thông tư số 36/2010/TT-BCA. Cụ thể, chủ sở hữu phương tiện có trách nhiệm “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ mua bán, cho, tặng, thừa kế, người mua hoặc bán xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục sang tên, di chuyển, thay đổi đăng ký xe”.
Cũng về vấn đề này, Luật sư Nguyễn Chiến, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng: Quy định trong Nghị định 71/2012 là rõ ràng. Tuy nhiên, đối với người dân và lực lượng thực thi pháp luật thì việc xác định hành vi vi phạm và xử phạt hành vi vi phạm này thì ngoài căn cứ trong Nghị định 71, còn phải hiểu rõ các văn bản pháp luật có liên quan.