I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Ngày làm việc thứ 14, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII. Thảo luận việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai. Hôm qua, kỳ họp thứ tư, QH khóa XIII bước sang ngày làm việc thứ 14. Tại hội trường, các đại biểu đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của QH Nguyễn Văn Giàu trình bày báo cáo của Ủy ban Thường vụ QH về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai.
Thảo luận về chủ đề này, các ý kiến phát biểu cơ bản nhất trí với các nội dung phân tích, đánh giá đã được đề cập trong báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ QH. Theo đó, KNTC là quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Nhiều nghị quyết, chỉ thị của Ðảng đã xác định công tác giải quyết KNTC là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong cải cách hành chính Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thời gian qua, các văn bản pháp luật được ban hành về cơ bản phù hợp thực tiễn, bảo đảm quyền KNTC của công dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về đất đai. Hơn nữa, đã cụ thể hóa trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và người đứng đầu trong việc giải quyết KNTC.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về KNTC đã tạo thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền KNTC của mình; đồng thời bảo đảm cho các vụ việc KNTC được xem xét, giải quyết kịp thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Một số ý kiến cho rằng, các quy định của Luật Ðất đai vẫn còn nội dung chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và sử dụng đất, chưa giải quyết hài hòa giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất.
Nhiều đại biểu cho rằng, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khiếu kiện, nhất là khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện đông người là do cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai, giải quyết KNTC, tranh chấp về đất đai vừa yếu vừa thiếu. Thực tế có nơi còn tình trạng cán bộ, công chức có thái độ vô cảm, bàng quan với những bức xúc của nhân dân. Ðiều đó cũng còn thể hiện ở việc nhiều địa phương công tác quản lý đất đai còn lỏng lẻo, để xảy ra vi phạm, lấn chiếm đất nhưng không phát hiện, xử lý kịp thời, hoặc cố tình bao che vì lợi ích dòng họ, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân. Cán bộ làm công tác bồi thường khi thu hồi đất có trường hợp cố tình sai sót để sách nhiễu, tiêu cực... Các đại biểu kiến nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục xem xét để hoàn chỉnh dự thảo Luật Ðất đai (sửa đổi), coi đây là dự án luật rất quan trọng, điều chỉnh toàn bộ chính sách pháp luật về đất đai của xã hội. Do đó, Quốc hội cần chỉ đạo Chính phủ tổng kết kỹ, lấy ý kiến của nhân dân tham gia vào dự án luật này.
Phát biểu ý kiến về những vấn đề các đại biểu QH quan tâm, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang bày tỏ sự đồng tình, tiếp thu đầy đủ các ý kiến của các đại biểu QH đã phát biểu. Bộ trưởng cho rằng, các ý kiến đó rất sâu sắc, phân tích rõ nguyên nhân các yếu kém, hạn chế. Có những nguyên nhân khách quan, chủ quan. Tuy nhiên, đất đai của chúng ta có những biến động lớn qua các thời kỳ lịch sử, đây là nguyên nhân khách quan. Về nguyên nhân chủ quan, theo Bộ trưởng, đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quản lý đất đai nhiều, dẫn đến quá trình tổ chức thực hiện gặp khó khăn. Bên cạnh đó, do nhận thức pháp luật về đất đai của một bộ phận người sử dụng đất chưa được cập nhật. Bộ trưởng cũng cho biết, trách nhiệm của bộ là tham mưu cho Chính phủ ban hành chính sách; đôn đốc, theo dõi, thanh tra việc thực hiện các văn bản pháp luật và giải quyết tranh chấp về đất đai.
Sắp tới, Thanh tra Chính phủ tiếp tục tập trung các biện pháp để chấm dứt việc khiếu nại. Theo đó, tiếp tục thống nhất các biện pháp giải quyết giữa Trung ương và địa phương, tạo tiếng nói chung trong hệ thống chính trị, tổ chức đối thoại với người dân. Công khai kết quả giải quyết trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ðồng thời, quan tâm giải quyết những vụ việc phát sinh mới ngoài 528 vụ việc nêu trên.
Ðối với những vấn đề liên quan thẩm quyền giải quyết của ngành tòa án, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Trương Hòa Bình đã tham gia giải trình với QH. Ðồng chí cho rằng, các ý kiến phát biểu rất sát tình hình khiếu nại về đất đai thời gian qua. Ðồng chí đã cho biết về những loại vụ việc khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của các tòa án. Ðồng thời, cũng đề cập vấn đề hòa giải liên quan đến đất đai ở cơ sở và thẩm quyền của tòa án trong việc hòa giải các vụ việc liên quan đất đai.
Ðối với những vụ án hành chính, liên quan quyết định hành chính của chính quyền địa phương, theo Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, cũng còn một số vụ việc phải sửa. Có ý kiến cho rằng, do thẩm phán nể nang người có chức vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, do đó xét xử thiếu khách quan. Ðể khắc phục tình trạng này, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao cho biết, các cơ quan chức năng đang nghiên cứu để đề xuất tổ chức lại hệ thống tòa án không theo cấp hành chính mà tổ chức tòa án khu vực, nhằm bảo đảm tính khách quan, độc lập xét xử của tòa án.
* Mở đầu phiên họp buổi chiều, Phó Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đã trân trọng giới thiệu với QH, Ðoàn đại biểu Ðảng Cộng sản Cu-ba do đồng chí Hô-xê Ra-môn Ba-la-ghê, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng Ban Ðối ngoại T.Ư Ðảng Cộng sản Cu-ba làm trưởng đoàn sang dự Hội thảo lý luận lần thứ nhất giữa Ðảng CS Việt Nam và Ðảng CS Cu-ba đã đến dự phiên họp toàn thể này của QH Việt Nam.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhà báo và Công luận có bài Xung quanh vụ vỡ nợ bạc tỷ ở Bình Phước: Vì sao cơ quan thi hành án không chịu chia tiền cho các nạn nhân?. Bài báo phản ánh: Cách đây 2 năm, tại Thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã xảy ra một vụ vỡ nợ chấn động cả nước với số tiền khổng lồ. Vậy nhưng, vụ việc sau một thời gian dài diễn tiến đang có dấu hiệu đi vào ngõ cụt khi cơ quan thi hành án chưa chịu chia tiền cho các nạn nhân dù quyết định của tòa đã có từ tháng 4/2010…
Theo diễn tiến vụ án, vợ chồng ông Phan Tấn Sơn và bà Huỳnh Thị Lý (cùng ngụ thị xã Đồng Xoài) huy động hàng chục tỷ đồng của người dân rồi bất ngờ tuyên bố không có khả năng chi trả. Vụ việc này (dư luận gọi là vụ Lý-Sơn) được các cơ quan chức năng cho là tranh chấp dân sự và hướng dẫn các bên đưa nhau ra tòa. Tuy nhiên, sau khi được tòa giải quyết, các nạn nhân trong vụ án cho biết việc họ không được nhận tiền thi hành án (THA) dù tòa án đã có quyết định từ tháng 4/2010.
Ngày 26/4/2010, Chi cục THA dân sự thị xã Đồng Xoài ban hành một loạt QĐ “THA theo đơn yêu cầu”. Theo các QĐ nêu trên, vợ chồng bà Lý - ông Sơn phải trả cho các chủ nợ theo QĐ của tòa, gồm: Trương Thị Ngọc (6,8 tỷ đồng), Lê Thị Hồng Liên (2,493 tỷ đồng), Đỗ Thị Kim Hường (trên 490 triệu đồng), Hoàng Xuân Sơn (550 triệu đồng), Trần Thị Kim Anh (650 triệu đồng)...
Đến tháng 6/2010, dựa trên danh sách những tài sản do những người nêu trên đưa ra, chi cục THADS Đồng Xoài tiến hành kê biên một số tài sản của vợ chồng Lý - Sơn. Đến tháng 11/2010, tiếp tục kê biên thêm 6 tài sản khác của cặp vợ chồng này và đã tổ chức bán đấu giá số tài sản của 2 đợt kê biên nêu trên được 12,5 tỷ đồng.
Ngay sau khi bán đấu giá, Chi cục THADS Đồng Xoài chuẩn bị làm thủ tục chi tiền cho các nạn nhân thì bỗng nhiên xuất hiện luồng ý kiến cho rằng nếu chi trả cho một số người nêu trên là không công bằng, vì chủ nợ của vợ chồng Lý – Sơn có trên 40 người.
Theo Chi cục THADS Đồng Xoài, trong vụ việc vợ chồng Lý – Sơn nợ, những người làm đơn yêu cầu THA ở nhiều thời điểm khác nhau và chi cục THADS đã cưỡng chế kê biên tài sản 2 lần ở 2 thời điểm khác nhau để đảm bảo THA cho những người được THA theo thời điểm làm đơn yêu cầu. Tuy nhiên, sau khi bán đấu giá tài sản kê biên, nhiều chủ nợ khác (ngoài những chủ nợ có tên trên) làm đơn yêu cầu chi cục THADS Đồng Xoài phải chia đều.
Sau đó, tại một cuộc họp trong tháng 9/2011, Thường trực Thị ủy Đồng Xoài đề nghị chi cục THADS Đồng Xoài lập danh sách tất cả những đơn vị, những cá nhân được THA và ra quyết định THA một lần. Thực hiện việc chi trả theo thứ tự, chi trả cho những ngân hàng theo tài sản đã thế chấp theo giao dịch đảm bảo. Số tiền còn lại sau khi trả cho các ngân hàng, thì căn cứ vào số tiền mà những người được THA đã cho vợ chồng Lý – Sơn vay để giải quyết theo tỷ lệ cho vay, đảm bảo tính công bằng cho tất cả chủ nợ.
Sau thời gian chờ đợi gần một năm nhưng vẫn không được trả tiền, những người được THA quá bức xúc đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan Trung ương và địa phương. Nhiều người dân đã kéo đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước, để khiếu nại về việc Chi cục THADS Đồng Xoài chậm giải quyết thi hánh án. Tại buổi tiếp xúc khiếu kiện mới đây, ông Nguyễn Văn Triệu, Cục trưởng Cục THADS tỉnh Bình Phước cho rằng, qua kiểm tra phát hiện các quyết định THA do Chi cục THADS Đồng Xoài ban hành có sai sót. Cục THADS tỉnh đã chỉ đạo chi cục THADS Đồng Xoài nghiên cứu, kiểm tra, chỉnh sửa sai sót, sau đó ban hành các văn bản để THA và thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Hiện nay, Chi cục THADS Đồng Xoài đã chỉnh sửa, ban hành các văn bản THA theo quy định, Cục THADS tỉnh sẽ chỉ đạo Chi cục THADS Đồng Xoài thực hiện THA theo đúng quy định.
Theo các cơ quan chức năng tỉnh Bình Phước, đây là vụ việc khá phức tạp, liên quan đến 46 người được THA với số tiền vợ chồng Lý – Sơn nợ trên 70 tỷ đồng. Sau khi kê biên tài sản và tổ chức bán đấu giá, số tiền thu được không đủ chi trả cho tất cả các chủ nợ. Trong vụ này có một số người làm đơn THA trước, một số người làm đơn sau. Theo luật THADS, phải trả cho 7 người (Trương Thị Ngọc, Lê Thị Hồng Liên, Đỗ Thị Kim Hường, Hoàng Xuân Sơn, Trần Thị Kim Anh, Phạm Thị Liễu và bà Nguyễn Thị Ngọc Nữ) vì những người này nằm trong số người được ban hành quyết định THA đầu tiên.
Tuy nhiên, do quan điểm của các cơ quan chức năng chưa thống nhất, cho rằng nếu chỉ trả cho 7 người thì không công bằng và sẽ góp phần gây mất ANTT tại địa phương. Do đó , Chi cục THADS Đồng Xoài đã có báo cáo lên Cục THADS tỉnh Bình Phước để xin ý kiến. Đến nay, Cục THADS tỉnh vẫn đang xem xét, chưa có chỉ đạo cụ thể để giải quyết dứt điểm vụ việc. Sau khi THA một số tiền cho ngân hàng, số còn lại khoảng 7 tỷ đồng, chi cục THADS Đồng Xoài đã gửi vào ngân hàng theo quy định. Tiền lãi từ việc gửi tiền sẽ trả cho những người được THA.
Theo các chuyên gia tư vấn pháp luật tại Bình Phước, về nguyên tắc THADS thì cơ quan THA chỉ thi hành án theo bản án, QĐ đã có hiệu lực pháp luật của toà án. Như vậy, chỉ có cá nhân, tổ chức có tên trong bản án, quyết định của toà án mới có quyền yêu cầu THA. Còn trường hợp không có tên trong bản án của toà thì cá nhân, tổ chức đó không có quyền yêu cầu THA.
2. Báo VietnamNet có bài Điều khó hiểu ở "kỳ án vườn đào". Bài báo phản ánh: Ngay sau khi Cục thi hành án quận Tây Hồ (Hà Nội) ra QĐ thi hành án đối với bản án dân sự về vụ việc tranh chấp HĐ chuyển nhượng QSDĐ Vườn Đào, TANDTC đã có công văn đình chỉ 90 ngày thi hành án, và sau đó là QĐ kháng nghị gây nhiều tranh cãi!
Liên quan đến vụ việc, Báo Người Cao tuổi (điện tử) ngày 28/9/2012 đăng tải bài viết nhận định, bản Kháng nghị số 173/2012 của TANDTC là điều “không bình thường”.
Báo này phân tích: Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được TAND quận Tây Hồ, TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Bản án số 250/DS-PT ngày 30-12-2011 của Tòa phúc thẩm dân sự TP Hà Nội đã có hiệu lực thi hành. Đây là một bản án được dư luận và nhiều cơ quan báo chí khẳng định là nghiêm minh, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, Công ty Hồng Lan tìm mọi cách chống đối, phản bác, thậm chí thóa mạ, thách thức cả cán bộ Tòa án.
Nội dung bản kháng nghị này nhận xét thiếu khách quan, không thỏa đáng, không công bằng. Chỉ riêng việc TAND Tối cao cố tình để chậm thời gian gửi Bản kháng nghị đã là một điều khó hiểu.
Tại sao Quyết định kháng nghị do ông Tống Anh Hào kí ngày 24-5-2012 mà mãi đến ngày 10-9-2012 (tức sau 3 tháng 16 ngày), TAND quận Tây Hồ mới nhận được bản kháng nghị? Theo Luật định thì Quyết định kháng nghị bản án phải được gửi ngay đến cơ quan thi hành án".
Như vậy, việc TAND Tối cao chậm trễ gần 4 tháng mới gửi Bản kháng nghị cho Tòa án cấp dưới, không gửi Bản kháng nghị cho cơ quan thi hành án và các đương sự liệu có thiếu minh bạch?
III- THÔNG TIN KHÁC
Báo Sức khỏe và Đời sống có bài Đồng bào vùng sâu, vùng xa: Gian nan làm Giấy chứng minh nhân dân. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 05/1999/NĐ-CP, ngày 3/2/1999 của Chính phủ quy định về Chứng minh nhân dân (CMND) thì: “CMND là một loại giấy tờ tùy thân của công dân do cơ quan công an có thẩm quyền chứng nhận về những đặc điểm riêng và nội dung cơ bản của mỗi công dân trong độ tuổi do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm thuận tiện việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân trong đi lại và thực hiện các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam”. CMND có vai trò hết sức quan trọng trong mọi quan hệ pháp luật đối với các cơ quan nhà nước để chứng minh nhân thân của một cá nhân trong một quan hệ pháp luật cụ thể, mọi công dân Việt Nam đều có CMND là một điều kiện bắt buộc khi đến tuổi vị thành niên. Qua triển khai hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thì tình trạng đồng bào dân tộc thiểu số phần lớn đều chưa nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của CMND, nên chưa đi làm hoặc ngại đi làm vì đường sá xa xôi, ít va chạm với quan hệ pháp luật hoặc chưa nhận thức đầy đủ... Trong những năm gần đây, ý thức của đại bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên đáng kể, các gia đình đều cho con đi học, tham gia các quan hệ dân sự như mua bán tài sản... nên việc cần có CMND được bà con đồng bào dân tộc thiểu số hết sức quan tâm. Hầu hết các câu hỏi trợ giúp pháp lý như trình tự, thủ tục làm CMND? làm ở đâu? hoặc tách, nhập hộ khẩu, học lấy bằng lái xe như thế nào?... trong đó, yêu cầu được giải đáp về trình tự, thủ tục làm CMND cho bà con là chủ yếu.
Nhiều trường hợp, bà con đồng bào dân tộc được Nhà nước ưu đãi cho vay vốn sản xuất để xóa đói, giảm nghèo nhưng khi ra ngân hàng làm thủ tục vay vốn thì cán bộ ngân hàng không đồng ý vì thiếu CMND, điểm tháo gỡ là cán bộ ngân hàng yêu cầu phải có giấy xác nhận nhân thân của Chủ tịch UBND cấp xã mới đồng ý cho vay; hoặc muốn học bằng lái xe môtô thì cũng rất cần CMND hay muốn tách, nhập khẩu cũng vậy... và rất nhiều những quan hệ pháp luật cần đến CMND.
Vậy, vì sao tình trạng làm CMND của bà con đồng bào dân tộc thiểu số lại chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm túc? Xuất phát từ một số nguyên nhân như: đa số đồng bào dân tộc thiểu số tuổi trung niên trở lên không biết viết tiếng Việt, quan hệ pháp luật cần đến giấy tờ tùy thân còn nhiều hạn chế, địa điểm cấp CMND xa nơi cư trú... Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến người dân ngại đi làm CMND, dẫu rằng hiện nay người dân đều nhận thức được CMND rất quan trọng trong đời sống của họ và đa phần mọi người đều muốn có.
Để khắc phục vấn đề trên, cơ quan có thẩm quyền cấp CMND cần phối hợp với chính quyền cấp xã rà soát số lượng công dân chưa được cấp CMND và làm thủ tục cấp CMND lưu động tại từng thôn, làng của địa phương. Đồng thời, thực hiện nhiều giải pháp như: tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa của CMND; hỗ trợ lệ phí hay cử cán bộ điền những thông tin cá nhân nếu người dân không biết chữ... Sau khi làm CMND xong, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm chuyển về cho UBND cấp xã để thông báo cho bà con nhân dân đến nhận. Nếu thực hiện đầy đủ, có hiệu quả việc cấp CMND cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không những có ý nghĩa thiết thực trong việc đáp ứng các điều kiện pháp lý của cá nhân trong các quan hệ pháp luật của người dân mà còn hết sức thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước tại địa phương.