Điểm tin báo chí sáng ngày 30 tháng 10 năm 2012

30/10/2012
Trong buổi sáng ngày 30/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Báo điện tử Chính phủ đưa tin Quốc hội thảo luận tình hình kinh tế - xã hội. Từ sáng nay, 30/10, Quốc hội bắt đầu phiên thảo luận tại Hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012; kế hoạch năm 2013.

Phiên thảo luận này dự kiến kéo dài đến hết sáng 31/10. Trước đó, ngày 24/10, trong phiên thảo luận tại tổ, các đại biểu Quốc hội đã đóng góp nhiều ý kiến về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2013.

Tại buổi thảo luận, đa số các đại biểu đều đồng ý với nhận định, trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động phức tạp và khó khăn, thương mại sụt giảm mạnh, tăng trưởng toàn cầu thấp so với dự báo đầu năm, đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Những vấn đề này đã đặt ra những thách thức lớn trong lựa chọn chính sách và điều hành kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2012.

Ghi nhận những cố gắng của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, nhiều đại biểu cho rằng, đạt được mức tăng trưởng 5,2% năm 2012 là một nỗ lực lớn. Kinh tế xã hội của nước có rất nhiều chuyển biến, thể hiện ở việc 10/15 chỉ tiêu đạt, vượt kế hoạch.

Tuy nhiên, các đại biểu cũng lưu ý, Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn các yếu tố bền vững, giải quyết các “điểm nghẽn” của nền kinh tế như nợ xấu, hàng tồn kho.

The Báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc Quốc hội ngày 22/10 vừa qua, một mục tiêu cho năm 2013 là tăng cường lành mạnh hoá, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; kiềm chế lạm phát thấp hơn, đưa tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đề xuất một số chỉ tiêu cụ thể như GDP tăng 5,5%, tăng CPI khoảng 7-8%, tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức khoảng 8%, bội chi ngân sách không quá 4,8% GDP, tạo việc làm cho khoảng 1,59 triệu lao động, giảm 2% tỷ lệ hộ nghèo cả nước... Đồng thời, Chính phủ cũng đưa ra 9 nhóm giải pháp để đạt mục tiêu đã đề ra.

 

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh bài Đất người này lại bồi thường cho người kia. Bài báo phản ánh: Chi cục Thi hành án đã có văn bản ngăn chặn nhưng trung tâm phát triển quỹ đất vẫn chi trả sai đối tượng.

Năm 2007, ông Trần Văn Ngon (ấp Chợ, xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, Tiền Giang) mua căn nhà và thửa đất 117 m2 của bà Đỗ Thị Mỹ Phương (ngụ cùng ấp) và đã được UBND huyện Cái Bè cấp giấy đỏ. Sau khi bán nhà, đất, bà Phương xin thuê lại căn nhà để ở, hẹn sau một năm sẽ trả. Tuy nhiên, khi đến hạn bà Phương không thực hiện đúng lời hứa.

Vụ việc tranh chấp được đưa ra tòa và khi xử phúc thẩm TAND tỉnh Tiền Giang đã tuyên hợp đồng mua bán nhà đất giữa ông Ngon và bà Phương vô hiệu, bà Phương phải trả lại cho ông Ngon hơn 878 triệu đồng gồm tiền bán nhà và các khoản thiệt hại. Tòa này cũng đề nghị UBND huyện Cái Bè thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho ông Ngon và cấp lại giấy chứng nhận cho bà Phương sau khi bà trả xong tiền cho ông Ngon. Thế nhưng bà Phương không trả tiền cho ông Ngon nên giấy chứng nhận mang tên ông Ngon vẫn chưa bị thu hồi. Tháng 10-2011, Chi cục Thi hành án (THA) dân sự huyện Cái Bè thông báo cưỡng chế bán đấu giá nhà, đất để THA cho ông Ngon nhưng chưa thực hiện được.

Đầu năm 2012, khi triển khai công trình xây dựng cầu Cổ Cò trên quốc lộ 1A, chính quyền quyết định bồi thường cho nhà, đất nêu trên do có bị ảnh hưởng một phần. Chẳng rõ xác minh thế nào mà Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Cái Bè lại lập thủ tục bồi thường cho bà Phương hơn 123 triệu đồng. Ngay sau khi phát hiện sự việc, ông Ngon đã đến UBND xã An Thái Đông và Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện yêu cầu không giao tiền bồi thường cho bà Phương nhưng không được chấp nhận.

Ngày 28-3, Chi cục THA dân sự huyện Cái Bè gửi công văn đề nghị Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện không chi trả tiền bồi thường cho cả ông Ngon, bà Phương nhằm đảm bảo cho việc THA. Song vào ngày 17-5, giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất vẫn ký biên bản chi trả đủ tiền cho bà Phương.

Trao đổi với PV về cách xử lý nêu trên, ông Nguyễn Văn Lâm, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Cái Bè, cho rằng việc chi trả tiền bồi thường thuộc trách nhiệm của Ban Quản lý các dự án đầu tư xây dựng giao thông tỉnh. Khi PV nêu ban quản lý muốn chi trả tiền bồi thường cho ai đều căn cứ vào hồ sơ do cấp huyện gửi lên thì ông Lâm lại nói: “Việc thông báo chi trả tiền bồi thường cho bà Phương đã được niêm yết công khai, tại ông Ngon không khiếu nại”. PV tiếp tục nêu: “Ông Ngon có khiếu nại và Chi cục THA đã có công văn ngăn chặn” thì ông Lâm cho rằng: “Tại Chi cục THA có công văn nhưng không chịu cử cán bộ phối hợp với trung tâm tạm giữ tiền bồi thường của bà Phương nên trung tâm phải giao tiền cho bà Phương”. Cuối cùng, ông Lâm cho biết vụ việc đã được UBND huyện giao cho thanh tra huyện xem xét, xác minh trách nhiệm chi trả tiền bồi thường cho bà Phương thuộc về ai để có hướng giải quyết cụ thể.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Vụ “cưỡng chế thu hồi 1.200 tấn thép tại Hải Phòng“ nhầm đối tượng?. Bài báo phản ánh: Ngày 25/10/12 Cục Thi hành án dân sự TP.Hải Phòng ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án 2.000 tấn phôi thép của Công ty CP Luyện Gang Vạn Lợi giao cho Công ty Tài chính CP Dầu khí Việt Nam nhưng ngay một ngày sau (26/10/12) cơ quan này lại bất ngờ cưỡng chế thu hồi 1.200 tấm phôi thép của Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Xuân Phát (Công ty Xuân Phát) đang sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đông Nam Á – SeABank mà không có bất kỳ một sự thông báo trước nào và bất chấp sự phản đối của SeABank.

Đơn “kêu cứu” khẩn cấp của SeABank gửi tới Báo Pháp luật Việt Nam phản ánh: ngày 26/10/2012 SeABank bất ngờ nhận được thông báo của lực lượng bảo vệ ngân hàng về việc Cục Thi hành án dân sự (THADS) TP.Hải Phòng cùng một số cơ quan chức năng khác đang tiến hành cưỡng chế, thu giữ 1.200 tấn phôi thép là tài sản thế chấp thuộc quyền quản lý, định đoạt của SeABank.

Theo lời một lãnh đạo SeABank: “Ngay khi sự việc trên xảy ra, SeABank đã tức tốc cử cán bộ và nhân viên xuống làm việc với cơ quan hữu quan để xác định rõ quyền lợi liên quan của ngân hàng với tài sản này. Tuy nhiên, cán bộ của ngân hàng đã bị người của Cục THADS TP.Hải Phòng đuổi ra, gây cản trở, không cho tham gia giải quyết cũng như không tiếp nhận, xử lý bất kỳ hồ sơ, thông tin, đề nghị nào từ phía SeABank”.

Theo các hồ sơ SeABank cung cấp, số phôi thép 1.200 tấn này là tài sản cho Hợp đồng tín dụng số 1010294 của Công ty Xuân Phát dùng làm tài sản đảm bảo tại SeABank từ ngày 28/10/10 theo Hợp đồng thế chấp số 010294/TCHH ngày 28/12/2012. Tài sản thế chấp hiện được trông giữ tại xã An Hồng, An Dương, TP.Hải Phòng

Trên thực tế SeABank đã nhận tài sản bảo đảm và quản lý từ tháng 12/2010 đến nay. Tài sản bảo đảm được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Hiện tại khoản vay trên của Công ty Xuân Phát đã quá hạn, SeABank đã rất nhiều lần yêu cầu công ty thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tuy nhiên Công ty Xuân Phát không thực hiện đúng yêu cầu trả nợ. Do đó, SeABank đã tiến hành niêm phong và cử bảo vệ trong coi kho hàng cả ngày lẫn đêm và chuẩn bị tiến hành các thủ tục tố tụng với các cơ quan chức năng. Bất ngờ, ngày 26/10/12 số tài sản này đã bị Cục THADS TP.Hải Phòng tới cưỡng chế không thông báo lý do. Hiện tại, số hàng này bị lưu giữ tại kho của Công ty Matexim tại Hải Phòng.

Qua vụ việc này còn có một số điều bất hợp lý cần làm rõ là Cơ quan THADS Hải Phòng đang thi hành quyết định nào?. Đối tượng THA là ai?. Bên cạnh đó, trước khi cưỡng chế, Cơ quan THA Hải Phòng đã thực sự khách quan và tiến hành kiểm tra tài sản bị cưỡng chế có thuộc phạm vi của quyết định không?. Đồng thời cần làm rõ, quyết định cưỡng chế liên quan đến đối tượng/đương sự nào?. Trong đó có liên quan đến Công ty Xuân Phát (chủ hàng) và SeABank (bên nhận TSBĐ bị cưỡng chế) hay không?.

Mặt khác quyết định cưỡng chế ban hành ngày 25/10/12, các bên liên quan chưa nhận được thì ngay ngày 26/10/12 Cục THADS Hải Phòng đã tiến hành cưỡng chế ngay, khiến cho các bên liên quan không kịp trở tay, điều đó khiến quyền lợi của SeABank bị xâm hại nghiêm trọng.   

Đặc biệt, một câu hỏi mà nhiều người đang băn khoăn là: Số tài sản đảm bảo của SeABank đã bị cưỡng chế ngày 26/10/12 là tài sản của Công ty Xuân Phát, với đầy đủ chứng từ, tài liệu chứng minh sự độc lập của tài sản này. Tại sao cưỡng chế tài sản của Công ty Luyện Gang Vạn Lợi, nhưng Cục THADS TP.Hải Phòng lại lấy tài sản của Công ty Xuân Phát?. Liệu ở đây có sự cưỡng chế nhầm hay một kế hoạch thông đồng chiếm đoạt tài sản?. Điều này rất cần được các cơ quan có trách nhiệm của Tổng cục THADS và TP.Hải Phòng xác minh làm rõ.

3. Báo Dân trí có bài Đang sinh sống ổn định, tá hỏa bị người dưng kiện đòi nhà. Bài báo phản ánh: Trong đơn kêu cứu khẩn cấp và đơn tố cáo tội phạm gửi báo điện tử Dân trí, ông Nguyễn Văn Chung (SN 1958) và ông Nguyễn Văn Đức (SN 1962), cùng trú tại khu Tứ Thông - Tứ Minh - TP Hải Dương (Hải Dương) bày tỏ sự việc “dở khóc dở cười”: Khi ông Chung đang sinh sống ổn định trên khu đất mua lại của người cháu từ năm 2006 thì bỗng dưng nhận được thông báo của TAND TP Hải Dương về việc bị một người xa lạ khởi đơn kiện xâm phạm chỗ ở và hủy hoại tài sản để đòi quyền sở hữu mảnh đất của ông Chung.

Theo đơn của ông Chung, cuối năm 2006, ông Chung và ông Đức cùng góp tiền mua lại mảnh đất có diện tích 295m2 của ông Nguyễn Thế Đạt (cháu gọi ông Chung bằng cậu) tại thôn Nhật Tân - Tứ Minh - TP Hải Dương với số tiền 225 triệu đồng. Do sổ đang thế chấp tại ngân hàng nên việc chuyển nhượng này chỉ lập giấy viết tay có xác nhận của Bí thư chi bộ và Tổ trưởng khu phố. Ông Đạt nhận tiền và ông Chung được sự ủy quyền của ông Đức đã nhận nhà, sinh sống ổn định từ đầu năm 2007.

Tại Thông báo số 48-TB-UBND ngày 2/11/2011 của UBND phường Tứ Minh về giải quyết đơn tố cáo ông Nguyễn Văn Chung chiếm đoạt tài sản của bà Vũ Thị Quang, UBND phường đã khẳng định: “Căn cứ vào tài liệu xác minh trên… Xét thấy việc ông Nguyễn Văn Chung mua nhà đất của anh Nguyễn Thế Đạt, về thủ tục tuy chưa thật đầy đủ tính pháp lý theo quy định của pháp luật (chưa qua công chứng chứng thực, chưa làm thủ tục cấp GCNQSDĐ) nhưng việc mua bán là có thật, hai bên đã thanh toán tiền mua bán, chuyển nhượng cho nhau và có văn bản cam kết giữa các bên và có người làm chứng.

Sau khi mua xong, năm 2007 ông Chung đã sử dụng bình thường không có tranh chấp từ lúc mua (năm 2007) cho đến thời kỳ tranh chấp với bà Quang (tháng 04/2011). Vì vậy, không có cơ sở để kết luận ông Chung xâm phạm chổ ở và hủy hoại tài sản công dân theo nội dung đơn tố cáo của bà Quang”.

UBND xã Tứ Minh đã kết luận “Xét vụ việc chuyển nhượng nhà đất của ông Đạt cho ông Chung. Sau đó ông Đạt lại chuyển nhượng cho bà Quang là có dấu hiệu tội phạm…”.

Thụ lý đơn khởi kiện dân sự của bà Vũ Thị Quang, ngày 26/10/2012, TAND TP Hải Dương đã mở phiên tòa xét xử vụ án. Trước đó, ngày 23/10/2012, 6 đồng thừa kế là bà Bé, ông Minh, Trường, Đức, Tuyết và Hằng (vợ cả và các con của ông Dũng) lại có văn bản gửi Tòa án đề nghị Tòa tuyên hủy toàn bộ văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 196 đã được công chứng viên ký xác nhận ngày 29/06/2010. Luật sư bảo vệ cho bị đơn, ông Nguyễn Văn Chung đã có văn bản đề nghị Tòa đưa công chứng viên Phạm Văn Vĩnh tham gia tố tụng với tư cách là người liên quan. Tuy nhiên, tại phiên tòa, không có mặt của công chứng viên Phạm Văn Vĩnh nhưng TAND TP Hải Dương vẫn quyết định xét xử.

Trước sự việc, ông Nguyễn Thế Đạt lại luôn miệng chối rằng mình không bán thửa đất 295m2 cho ông Chung mà chỉ...cầm cố, khi nào có tiền sẽ chuộc lại. Mặc dù, trước đó, trong văn bản gửi cho UBND phường Tứ Minh ngày 8/6/2011, ông Nguyễn Thế Đạt đã khẳng định: “Vào năm 2005, tại khu đất Nhật Tân, bố tôi là Nguyễn Thế Dũng đã lập văn bản cho tôi 295 m2 đất ở thửa đắt 24 + 24b thuộc bản đồ số 1. Tôi đã làm nhà mái bằng 2 tầng với diện tích 105 m2, đến năm 2007 do không có nhu cầu sử dụng, tôi đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Chung ở khu Tứ Thông, Tứ Minh với số tiền là 225 triệu đồng, tôi đã nhận đủ tiền và giao nhà cho ông Chung”

Trong văn bản gửi cho UBND phường Tứ Minh ngày 8/6/2011, ông Nguyễn Thế Đạt đã khẳng định đã nhận đủ tiền và giao nhà cho ông Chung”.

Sau phần nghị án, HĐXX TAND TP Hải Dương quyết định sẽ tuyên án vào sáng 30/10/2012.

Luật sư Ngô Tất Hữu - Trưởng văn phòng luật sư Thủ đô thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà nội, bảo vệ cho bị đơn, ông Nguyễn Văn Chung cho rằng: Nguồn gốc cơ bản của sự việc này là do các văn bản công chứng của công chứng viên Phạm Văn Vĩnh xác nhận ngày 29/6/2010 trái pháp luật gây ra.

Văn bản công chứng xác nhận sự thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế được lập ngày 14/12/2005 được công chứng viên Nguyễn Văn Tường - Phòng công chứng số 1 xác nhận là đúng pháp luật có giá trị pháp lý không ai có thể thay thế được . Theo Nghị Định 75/2000/NĐCP về công chứng, chứng thực, Luật công chứng, nếu người có tài sản là ông Nguyễn Thế Dũng sau khi chia tài sản cho các con năm 2005 sang năm 2006 đã chết thì các văn bản này chỉ được hủy khi có quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Vì vậy, Văn bản công chứng xác nhận sự thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế được lập ngày 29/6/2010 và được công chứng viên Phạm Văn Vĩnh - Phòng công chứng số 1 xác nhận số 196 quyển số 13 là vi phạm nghiêm trọng pháp luật . Theo điều 222 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định chủ sở hữu là ông Dũng (đã mất) có đủ 3 quyền là “quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt”, không ai có quyền can thiệp xóa bỏ quyền định đoạt đó của chủ sở hữu tài sản.

Do vậy, ngày 29/6/2010, 9 đồng thừa kế lại lập văn bản thỏa thuận chia thừa kế toàn bộ di sản của ông Dũng, bà Thơm (808 m2 đất, thực tế là 733 m2) rồi hợp thức hóa cho ông Đại đứng tên để làm Sổ đỏ để sau đó bán đất lần thứ 2 là hoàn toàn trái pháp luật. Trước khi đặt bút ký xác nhận công chứng vào văn bản thỏa thuận phân chia di sản này công chứng viên Phạm Văn Vĩnh - Phòng công chứng số 1 biết trái pháp luật nhưng vẫn ký xác nhận dẫn đến những hậu quả khôn lường.

TAND TP Hải Dương vẫn quyết định xét xử vụ án dù không có mặt công chứng viên Phạm Văn Vĩnh. TAND TP Hải Dương sẽ tuyên án vào sáng 30/10/2012.

Ngoài ra, sự tùy tiện, cẩu thả của ông Vĩnh còn thể hiện qua việc nhầm lẫn ghi sai cả năm chết của ông Dũng và ghi sai HKTT của hai bà Nguyễn Thị Hồng và Nguyễn Thị Hằng mãi tới khi có đơn của ông Đức thì công chứng viên Phạm văn Vĩnh mới ra thông báo đính chính …

Vì vậy, căn cứ vào Điều 3 , khoản d Điều 12 Luật Công chứng, điều 339a Bộ luật TTDS , Điều 222 Bộ Luật Dân sự năm  1995; Khoản 2 Điều 14 và khoản 4 Điều 52 Nghị Định số 75/2000.NĐ-CP của Chính Phủ về Công chứng, chứng thực  và các quy định của pháp luật, luật sư đề nghị TAND TP Hải Dương  tuyên hủy văn bản thỏa thuận chia di sản của 9 đồng thừa kế đối với tài sản nhà đất có diện tích  808 m2 tại thôn Nhật Tân, xã Tứ Minh của ông Nguyễn Thế Dũng và bà Phạm Thị Thơm ngày 29/06/2010 do công chứng viên Phạm Văn Vĩnh xác nhận số 196 tại quyển 13 phòng công chứng số 1  TP Hải Dương, đồng thời, bác Đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Quang, ông Nguyễn Văn Oanh và bà Nguyễn Thị Hiền đòi QSDĐ và tài sản trên đất của ông Nguyễn Văn Chung.

Trao đổi với PV Dân trí, ông Phạm Văn Vĩnh - Trưởng văn phòng công chứng số 1 tỉnh Hải Dương khẳng định: Các văn bản công chứng do Vĩnh xác nhận ngày 29/6/2010 liên quan đến việc chia thừa kế tài sản của ông Dũng, bà Thơm là hoàn toàn đúng quy định pháp luật.

Theo ông Vĩnh, do diện tích đất của gia đình ông Dũng trên Sổ đỏ là 808 m2 nhưng thực tế qua kiểm tra, xác minh chỉ có 733 m2 đã không được Phòng TNMT TP Hải Dương chấp nhận khi giải quyết các thủ tục liên quan nên căn cứ vào nguyện vọng của các đồng thừa kế của ông Dũng, ông Vĩnh đã xác nhận sự thỏa thuận về phân chia di sản thừa kế được lập ngày 29/6/2010.

“Việc xác nhận của tôi liên quan đến sự việc này đúng pháp luật và còn đảm bảo hơn tính công bằng cho các đồng thừa kế của ông Dũng. Nếu như TAND TP Hải Dương tuyên hủy các văn bản công chứng do tôi xác nhận ngày 29/6/2010, tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm”, ông Vĩnh cho biết.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khai tử người sống để hưởng bồi thường. Bài báo phản ánh: Sau gần một năm khiếu nại, ông Lê Công Quận (76 tuổi) ở Cà Mau mệt mỏi nói: “Tôi còn sống sờ sờ nhưng trong hồ sơ bồi thường mảnh đất của tôi, người ta ghi là tôi đã chết, giải quyết cho người khác hưởng thụ tiền đền bù đất của tôi”.

Theo hồ sơ, năm 1990 ông Quận mua một nền nhà gần 60 m2 của ông K. tại phường 1, TP Cà Mau. Hai năm sau ông cất nhà để ở và hành nghề hớt tóc. Sau khi có nhà, ông đã sống như vợ chồng với bà N. Hai người ở chung đến năm 1996 thì bà N. và ông mỗi người một phương. Năm 1997, bão số 5 làm sập hoàn toàn căn nhà. Đến cuối năm 2011, ông quay về thì phát hiện nền nhà của mình bị giải tỏa làm đường, phần tiền đền bù bị bà N. đứng tên hưởng trọn. Tìm hiểu, ông mới biết trong hồ sơ bồi thường đất, ông bị bà N. khai là đã chết và phường đã xác nhận vào hồ sơ này. Thế là ông trình chứng minh nhân dân, sổ đăng ký hộ khẩu tại thửa đất nói trên, các chứng cứ khác cùng… bản thân còn sống của ông để xin nhận tiền bồi thường nhưng không được giải quyết.

Trung tâm Phát triển quỹ đất TP Cà Mau, đơn vị đang tạm giữ số tiền bồi thường, giải thích cho ông Quận: Sẽ chi trả tiền bồi thường theo bản án giải quyết tranh chấp giữa ông và bà N., phường cũng hướng dẫn ông nên khởi kiện bà N. ra tòa án để giải quyết nếu không thỏa thuận được.

5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bồi thường oan: Có khi vướng từ đương sự. Bài báo phản ánh: Thực tế có những đương sự thỏa thuận xong rồi đổi ý thì cơ quan chức năng không biết làm sao.

Thực tiễn giải quyết chuyện bồi thường oan cũng có khi khó khăn, chậm trễ lại xuất phát từ phía đương sự như thỏa thuận xong rồi đổi ý, chậm yêu cầu bồi thường dù bản án đã có hiệu lực pháp luật từ lâu…

Theo báo cáo của VKSND TP.HCM tại tọa đàm sơ kết ba năm thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (vừa diễn ra tại TP.HCM), ba năm qua, ngành kiểm sát TP không để xảy ra trường hợp làm oan nào phải bồi thường theo luật. Tuy nhiên, có bốn trường hợp xảy ra từ trước năm 2010 (thời điểm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực), người dân yêu cầu bồi thường thì vẫn giậm chân tại chỗ, chưa thể giải quyết dứt điểm.

Cụ thể, năm 1996, Công an quận 10 khởi tố ông Lê Thành Minh về tội nhận hối lộ (có phê chuẩn của VKS quận). Quá trình điều tra vụ án sau đó đã bộc lộ nhiều sai sót như thu thập chứng cứ không theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự nên không có giá trị. Vì thế, tòa đã không thể tuyên án mà liên tục trả hồ sơ điều tra lại từ đầu. Cuối cùng, VKS quận 10 phải ra quyết định đình chỉ vụ án vì không đủ chứng cứ buộc tội.

Ông Minh yêu cầu được bồi thường oan theo Nghị quyết 388. Đầu năm 2007, ông Minh và VKS quận 10 đã thống nhất số tiền bồi thường do bị làm oan là hơn 17 triệu đồng. Các thủ tục khác như VKS quận xin lỗi công khai ba kỳ trên báo chí cũng đã hoàn tất. Sau khi làm các thủ tục cấp kinh phí, số tiền trên đã được chuyển về Kho bạc Nhà nước quận nhưng ông Minh lại kiên quyết không chịu nhận dù VKS quận nhiều lần mời. Lý do là sau khi thỏa thuận, ông Minh lại muốn được bồi thường số tiền cao hơn nên không nhận tiền và gửi đơn khiếu nại khắp nơi. Vì vậy, sáu năm qua, số tiền trên vẫn nằm trong kho bạc.

Vụ khác, năm 1997, VKS quận 8 phê chuẩn quyết định khởi tố bà Trần Thị Thuận về tội hủy hoại tài sản. Tuy nhiên, quá trình điều tra không chứng minh được hành vi phạm tội của bà Thuận nên cuối năm 2005, VKS quận 8 phải ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can.

Tiếp đó, VKS quận ra thông báo gửi cho bà Thuận xác định bà không phạm tội và thuộc diện được bồi thường theo Nghị quyết 388. Tuy nhiên, điều lạ là VKS quận đã nhiều lần gửi giấy mời đến nhận quyết định đình chỉ và tiến hành thương lượng bồi thường oan mà bà Thuận lại không đến. Thậm chí, khi UBND quận thành lập một tổ công tác đến tận nhà bà Thuận làm việc, bà cũng không tiếp. Mãi mới đây, bà mới có đơn yêu cầu được thương lượng bồi thường nên VKS quận đang giải quyết.

Tương tự, năm 2007, được VKS quận phê chuẩn, Công an quận Gò Vấp đã khởi tố ông Đặng Ngọc Dân về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tháng 9-2009, TAND TP xử phúc thẩm đã tuyên bố ông Dân không phạm tội. Án phúc thẩm là án có hiệu lực pháp luật ngay nhưng mãi đến đầu năm 2012, ông Dân mới có đơn yêu cầu bồi thường oan. VKS quận Gò Vấp đã đồng ý bồi thường hơn 72 triệu đồng nhưng đến nay vẫn chưa xong vì còn chờ các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt cấp kinh phí...

Ông Trần Thật (Trưởng phòng Kiểm sát điều tra án kinh tế - chức vụ VKS TP.HCM) nhận xét Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về thời hạn yêu cầu với đương sự là hai năm kể từ ngày có văn bản xác định oan nhưng lại chưa quy định về thời hạn giải quyết việc bồi thường. Thực tế có những đương sự thỏa thuận xong rồi đổi ý thì cơ quan chức năng không biết làm sao như vụ việc của ông Minh phản ánh ở trên. Lúc này, cơ quan chức năng dù có thành ý giải quyết nhanh cũng không xong, làm vụ việc kéo dài từ năm này qua năm khác. Do đó, ông Thật đề nghị luật quy định cụ thể là người đã được bồi thường oan nhưng sau bao nhiêu ngày mà không đến nhận tiền thì sẽ không xem xét, giải quyết nữa.

Cạnh đó, theo ông Thật, luật mới chỉ quy định việc bồi thường về vật chất, tinh thần cho người bị oan. Nhưng thực tế người bị oan không chỉ là người dân bình thường mà có khi còn là cán bộ, công chức... Khi có quyết định thừa nhận sai của cơ quan có thẩm quyền thì những quyền lợi hợp pháp khác của họ như chức vụ, cấp bậc, thưởng, bảo hiểm... có được bồi thường hay không, dựa trên cơ sở nào? Trường hợp chủ doanh nghiệp bị làm oan, uy tín doanh nghiệp bị ảnh hưởng, không ký được hợp đồng trong thời gian bị làm oan thì tính thiệt hại vật chất như thế nào?