Điểm tin báo chí sáng ngày 22 tháng 10 năm 2012

22/10/2012
Trong buổi sáng ngày 22/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII. Sáng nay, 22/10, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII khai mạc, bắt đầu một tháng làm việc với nhiều nội dung quan trọng.

Kéo dài đến ngày 22/11, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 9 dự án luật và 2 Nghị quyết; cho ý kiến về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và 6 dự án luật khác.

Là kỳ họp cuối năm, Quốc hội sẽ dành nhiều thời gian xem xét, thảo luận và quyết định các vấn đề về kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước; nghe báo cáo về Đề án Tái cơ cấu nền kinh tế; xem xét báo cáo công tác năm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án, công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác phòng, chống tham nhũng.

Cũng tại kỳ họp này, lần đầu tiên, Chính phủ sẽ báo cáo với Quốc hội về việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 và kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII.

Chuẩn bị cho kỳ họp, thời gian qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan hữu quan, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội đã khẩn trương chuẩn bị các nội dung trình Quốc hội.

Trước khi về dự kỳ họp, các vị đại biểu Quốc hội đã tiếp xúc cử tri, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của cử tri để phản ánh với Quốc hội; các Đoàn đại biểu Quốc hội đã tổ chức nghiên cứu, thảo luận các văn bản và dự kiến chương trình của kỳ họp.

Cũng tại kỳ họp này, số lượng các phiên họp của Quốc hội được truyền hình, phát thanh trực tiếp sẽ tăng lên 13 buổi (tăng 5 buổi so với kỳ họp trước) trong đó có những nội dung hiện đang được cử tri và dư luận xã hội quan tâm theo dõi như: dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); dự án Luật Đất đai (sửa đổi); dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; dự thảo Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn, phiên chất vấn và trả lời chất vấn…

2. Báo Thanh niên Online có bài Khiếu nại tố cáo đông người tăng 22,6%. Bài báo phản ánh: Đây là một trong những thông tin đáng chú ý trong Báo cáo của Chính phủ về kết quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC) năm 2012 gửi tới các ĐBQH phục vụ cho kỳ họp thứ 4.

Theo báo cáo, trong năm 2012, các cơ quan hành chính nhà nước tiếp 349.139 lượt công dân đến KNTC, trong đó có 4.772 lượt đoàn đông người (từ 5 người trở lên); tiếp nhận 136.783 đơn thư KNTC.

So với năm 2011, số lượt công dân KNTC giảm 2,06% nhưng số lượt đoàn đông người tăng 22,6%.

Báo cáo cho hay nội dung khiếu nại (KN) chủ yếu tập trung ở lĩnh vực đất đai, như KN việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án; tranh chấp đất đai; đòi lại đất cũ… với tỷ lệ 74,7% tổng số đơn KN (giảm 4,3% so với năm 2011).

Về tố cáo, đơn thư tố cáo chủ yếu tập trung ở lĩnh vực hành chính với tỷ lệ 93,9% (tăng 8,9% so với năm 2011).

Nội dung chủ yếu là tố cáo cán bộ, công chức cố ý làm trái, chiếm đoạt tài sản, lạm dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi; thiếu trách nhiệm, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện chính sách xã hội...

Chính phủ nhận định: “Nhìn chung, tình hình KNTC của công dân có giảm so với cùng kỳ năm 2011 về số lượt người, số lượng đơn thư và số vụ việc, tuy nhiên, số lượt đoàn đông người và tính chất mức độ có thời điểm gay gắt hơn (từ tháng 2 đến tháng 5.2012)”.

Cũng theo báo cáo, tình hình KNTC nêu trên đã ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại một số địa bàn trong một số thời điểm, một số dự án bị đình trệ, kéo dài, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội.

“Đáng quan tâm là một số người khiếu nại thể hiện thái độ coi thường kỷ cương, bất chấp pháp luật, có hành vi đối đầu với chính quyền, thậm chí dùng vũ khí nóng để chống người thi hành công vụ”, báo cáo nêu.

Có 3 nhóm nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng KNTC phức tạp được Chính phủ chỉ ra, trong đó có nguyên nhân về cơ chế, chính sách; nguyên nhân từ công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý nhà nước ở một số địa phương còn yếu kém, nhất là công tác quản lý đất đai; và nguyên nhân khác là do ý thức pháp luật của người KN còn hạn chế “nên có những trường hợp đưa ra yêu cầu, đòi hỏi quá đáng”.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Thanh niên Online có bài Thua kiện, UBND huyện “né” thi hành án. Bài báo phản ánh: Dù cơ quan chức năng tỉnh Bình Phước nhiều lần có văn bản nhắc nhở chấp hành bản án, nhưng UBND H.Đồng Phú (tỉnh Bình Phước) vẫn... làm lơ.  Theo hồ sơ vụ kiện, vào năm 1999, bà Nguyễn Thị Loan (45 tuổi), từ Vĩnh Phúc vào xã Tân Hòa, H.Đồng Phú (Bình Phước) sinh sống. Năm 2001, bà Loan sang nhượng lại của ông Vương Văn Quắn 1,7 ha đất để trồng mì. Vào tháng 6.2003, UBND tỉnh Bình Phước thu hồi toàn bộ đất xâm canh để giao cho Công ty cao su Sông Bé, trong đó có phần đất của bà Loan. Khi bị thu hồi đất, ngoài số tiền đền bù về cây trồng, bà Loan còn nhận 1 ha đất tái định canh tại ấp Đồng Tân (xã Tân Hòa) và đã trồng cao su.  

Đến ngày 21.7.2006, UBND H.Đồng Phú ban hành Quyết định 1676/QĐ-UBND thu hồi đất đã cấp với lý do: “Hộ bà Nguyễn Thị Loan không có tên trong danh sách các hộ dân nhận tiền hỗ trợ, đền bù trong khu thu hồi 2.256 ha; không đủ điều kiện để cấp tái định canh, định cư theo quy định”. Nhận được quyết định này, bà Loan lập tức có đơn khiếu nại. Ngày 21.1.2009, UBND tỉnh Bình Phước bác đơn của bà Loan; đồng thời đề nghị UBND H.Đồng Phú “bổ sung thêm lý do thu hồi đất trong Quyết định 1676”. Ngày 18.6.2009, UBND H.Đồng Phú ban hành Quyết định 2043/QĐ-UBND nêu lý do: “Hộ bà Nguyễn Thị Loan có hành vi gian dối trong khai báo để nhận định canh, tái định cư”. Tiếp đến, vào ngày 7.10.2009, UBND H.Đồng Phú thành lập đoàn cưỡng chế, chặt 775 cây cao su (trồng năm 2006 và 2007), phá một căn nhà xây bằng gạch (43 m2), lấp cả giếng nước...

Không đồng ý với 2 quyết định thu hồi đất trên, bà Loan khởi kiện UBND H.Đồng Phú ra tòa; đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại (do cưỡng chế trái luật) 800 triệu đồng. Ngày 12.7.2011, TAND H.Đồng Phú xét xử sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của bà Loan. Ngày 18.10.2011, TAND tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo của bà Loan, yêu cầu hủy 2 quyết định của UBND H.Đồng Phú. Riêng phần bồi thường thiệt hại 800 triệu đồng, do phía bà Loan rút đơn nên TAND tỉnh Bình Phước đã đình chỉ yêu cầu này. Theo TAND tỉnh Bình Phước, cả 2 quyết định của UBND H.Đồng Phú ban hành đều sai về hình thức (tồn tại 1 lúc 2 quyết định hành chính) và cả nội dung (thực tế bà Loan có tên trong danh sách cấp đất định canh và đã nhận tiền hỗ trợ di dời thể hiện tại phiếu chi số 105 ngày 8.12.2003 của Công ty cao su Sông Bé)…

Ngày 12.1.2012, UBND H.Đồng Phú gửi đơn lên Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao, đề nghị giám đốc thẩm; nhưng đến nay vẫn chưa thấy hồi âm. Và gần 1 năm qua, kể từ ngày án phúc thẩm có hiệu lực, UBND H.Đồng Phú vẫn không chịu chấp hành án. Trong khi đó, thông báo kết luận của Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước mới đây cho rằng: “Vụ việc của bà Loan đã được UBND tỉnh Bình Phước có nhiều văn bản chỉ đạo UBND H.Đồng Phú thi hành bản án phúc thẩm, nhưng đến nay UBND H.Đồng Phú vẫn chưa giải quyết”.

2. Báo Sức khỏe và Đời sống có bài Mất nhà vì “tín dụng đen”: Ai chứng thực quyền chuyển nhượng đất của dân?. Bài báo phản ánh:  “Số phận” của 15 sổ đỏ về nguyên tắc đã được định đoạt, đang trong giai đoạn phát mại nhằm thu hồi tài sản cho phía ngân hàng và 10 sổ đỏ khác cũng đang rơi vào hoàn cảnh tương tự. Lý do: ngoài sự thiếu hiểu biết về mặt pháp luật, dễ dãi, cả tin của người dân vào tình làng nghĩa xóm khiến cho họ đứng trước nguy cơ mất nhà thì vấn đề đặt ra liệu chính quyền địa phương có làm ngơ cho các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình chứng nhận sang tên, chuyển nhượng sổ đỏ giữa người vay và người cho vay vốn?

Hiện nay, ông Tạ Văn Thông (ở xóm Núi Chè, thôn Phú Đa, xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, Hà Nội) vẫn không thể hình dung nổi vì sao với khoản nợ chỉ vài chục triệu đồng mà bỗng dưng gia đình ông đang đứng trước nguy cơ mất trắng cả căn nhà với giá trị thực lên tới vài tỷ đồng. Ông Thông buồn rầu khi hồi tưởng lại sự việc: Năm 2008, gia đình tôi có kế hoạch mua xe ôtô tải để làm dịch vụ vận chuyển hàng hoá nên muốn vay ngân hàng khoảng 300 triệu đồng. Khi đó, được anh Kiều Văn Chiến (người cùng xã) giới thiệu và cho gặp Giám đốc Công ty Thanh An nhưng họ chỉ cho vay có hơn 80 triệu đồng. Ngay sau đó, anh Chiến đã làm toàn bộ thủ tục vay tiền cho gia đình, ngờ đâu giờ đây bị lừa mất ngôi nhà và thửa đất rộng 360m2 ở ngay mặt đường làng. Cùng chung tâm trạng, ông Chu Văn Tảo (trú cùng thôn) cho biết thêm: Do cần tiền kinh doanh buôn bán, ông có nhờ anh Nguyễn Văn Hiệp (người cùng thôn đồng thời cũng là người “môi giới”) vay của Công ty Thanh An 50 triệu đồng bằng thế chấp sổ đỏ của gia đình.

            Sau khi cầm sổ đỏ để làm thủ tục, anh Hiệp có đưa cho gia đình anh Tảo ký vào nhiều loại giấy tờ với lời khẳng định: “Bác cứ yên tâm, cháu đã làm đầy đủ thủ tục rồi, ký nhanh để lấy tiền và các giấy tờ này chỉ là thủ tục để cho việc vay mượn dễ dàng hơn”. “Đúng lúc đang cần tiền cùng với người quen khẳng định như vậy nên khi họ đưa giấy tờ đến đâu tôi ký đến đó mà không kịp để ý xem nội dung cụ thể là gì. Mãi đến lúc nghe tin căn nhà của mình đang bị phát mại do Công ty Thanh An không trả được nợ gốc và lãi đúng hạn cho bên Ngân hàng Công Thương Việt Nam, tôi mới biết mình mắc lừa. Do sơ suất mới như vậy chứ không đời nào tôi lại ký vào giấy chuyển nhượng sổ đỏ để lấy có 50 triệu đồng cho cả căn nhà và mảnh đất 600m2 của gia đình mình được” – ông Tảo nói.

Theo phản ánh của đa số người dân, phóng viên được biết, chỉ với “chiêu” cho vay tiền dễ dàng, lãi suất ưu đãi đưa ra làm mồi nhử, Công ty Thanh An đã thu gom và sang tên, đổi chủ được 25 sổ đỏ của người dân xã Cần Kiệm rồi đem thế chấp vay vốn của ngân hàng với số tiền gần 5 tỷ đồng (gấp 10 lần số tiền mà công ty này cho các hộ dân vay – PV). Khi ngân hàng tiến hành thu hồi vốn thì doanh nghiệp này đã “lặn” khiến ngân hàng phải khởi kiện ra tòa và phát mại tài sản. Hiện tại, có 15 sổ đỏ mà Công ty Thanh An thế chấp vay vốn của Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã có thông báo thi hành án của Cục Thi hành án Dân sự Hà Nội đến từng hộ và còn khoảng hơn 10 sổ đỏ nữa vẫn nằm trong các ngân hàng khác.

Giải thích về tình trạng người dân đứng trước nguy cơ mất nhà xảy ra tại địa phương mình quản lý, ông Kiều Văn Lương - Chủ tịch UBND xã Cần Kiệm cho biết: Những giao dịch của người dân trong xã đều là giao dịch dân sự và chính quyền xã không biết. Đến khi Cục Thi hành án Dân sự Hà Nội có thông báo thi hành án gửi về địa phương thì xã mới biết sự việc.

Tuy nhiên, qua tìm hiểu của phóng viên, thực tế lại khác hoàn toàn những điều ông Lương nói. Theo phản ánh của người dân, không ít lần phía Công ty Thanh An đã mượn, thuê trụ sở của UBNX xã Cần Kiệm làm nơi họp, thông báo mức lãi suất cho vay đối với người dân. Sự việc xảy ra ở ngay trụ sở UBND xã Cần Kiệm mà lãnh đạo xã lại không hề hay biết? Thật lạ lùng! Tiếp đến, sau khi Công ty Thanh An cho người dân vay vốn, thế chấp sổ đỏ cho công ty, ngay lập tức công ty này đã tiến hành làm thủ tục sang tên từ đất của người dân sang tên Công ty Thanh An rồi làm tài sản thế chấp để vay tiền của các ngân hàng. Tất cả hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này đều được lãnh đạo UBND xã Cần Kiệm chứng thực, có xác nhận của ông Vũ Đức Bảo  - Giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Thạch Thất.

Qua quá trình tìm hiểu, thu thập tài liệu, chúng tôi nhận thấy hợp đồng chuyển nhượng cũng như hồ sơ đổi chủ từ các cá nhân, hộ gia đình sang tên Công ty Thanh An có nhiều dấu hiệu mờ ám. Theo quy định của pháp luật, trong các hồ sơ chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hồ sơ làm thủ tục sang tên, đổi chủ bắt buộc phải có chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của các bên liên quan (có chứng thực). Thế nhưng, trong tất cả các hồ sơ lưu tại UBND xã Cần Kiệm, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Thạch Thất đều không có chứng minh thư nhân dân và sổ hộ khẩu của các bên liên quan.

Hơn nữa, về nguyên tắc trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì phải có chữ ký của tất cả các thành viên trong gia đình đủ 18 tuổi trở lên và đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của cá nhân thì phải có đủ chữ ký của cả vợ lẫn chồng, nhưng trong hầu hết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có đại diện một người ký. Mặt khác, trong một thời gian ngắn, với sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ tập trung chủ yếu vào một xóm và chuyển nhượng cho một công ty lẽ nào chính quyền địa phương không hay biết sự việc và tỏ ra nghi vấn về vấn đề trên? Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến vai trò của ngân hàng. Theo quy định, khi thế chấp sổ đỏ, bắt buộc phía ngân hàng phải cử người đi thẩm tra, định giá tài sản. Nếu phía ngân hàng thực hiện đúng quy định này và trên thực tế người dân vẫn sinh sống ổn định mà sổ đỏ lại đứng tên một công ty, lẽ nào phía ngân hàng lại không hay biết?

Trao đổi với PV về tính hợp pháp của hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà Nguyễn Thị Chỉnh - Phó phòng Tài nguyên-Môi trường, Giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Thạch Thất, Hà Nội khẳng định, thời điểm đó bà chưa làm nên không biết cụ thể nội dung vụ việc. Hiện tại, vụ việc đã được toà án giải quyết và ra quyết định, mọi thứ đều không thể làm gì bởi xuất phát từ chỗ không hiểu biết về pháp luật nên người dân mới bị mắc lừa như vậy. Sự việc kể trên của những người dân ở xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, Hà Nội là một tiếng chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với nhiều người dân, chỉ vì cần tiền để làm ăn, phát triển kinh tế nhưng không tìm đến các cơ sở tín dụng được Nhà nước cấp phép nên hậu quả thật nặng nề. Nhà, đất là những tài sản rất giá trị, “một nắng hai sương” dành dụm nhiều thế hệ mới có được, nay sẽ mất trắng. Biết trách ai?   

3. Báo Phụ nữ Online có bài Độ chênh giữa luật và đời. Bài báo phản ánh: Cần có chế định ly thân; quy định thế nào về tài sản riêng - chung khi xét ly hôn; ngoại tình có được xem là lỗi; thi hành án giao con; xét xử ly hôn vắng mặt; ủy thác tư pháp khi xét xử ly hôn có yếu tố nước ngoài… là những vấn đề đã được đề cập tại tọa đàm Những bất cập trong thực thi Luật Hôn nhân & gia đình (HN&GĐ) do Báo Phụ Nữ tổ chức sáng 18/10. Các khách mời là luật sư, thẩm phán, cán bộ tư pháp, cán bộ Hội LHPN đã có nhiều góp ý rất cụ thể cho Dự thảo bổ sung, sửa đổi Luật HN&GĐ.

Năm 2008, khi tổng rà soát về dân số và HNGĐ, chỉ riêng xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ đã phát hiện hơn 200 cặp vợ chồng sống chung không đăng ký kết hôn. Bí thư đảng ủy xã lúc đó đã chỉ đạo các ngành đến từng nhà vận động các cặp này thực hiện việc đăng ký. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn gần 50% số này chưa thực hiện xong thủ tục. Bà Trần Thị Hân - Phó Chủ tịch Hội LHPN Cần Giờ, cho biết, đến hôm nay, Hội LHPN vẫn đang vướng víu hậu quả của việc này. Hàng chục phụ nữ trong tình trạng bị chồng “bỏ rơi” cùng với gánh nặng áo cơm và con trẻ. Đáng nói, hầu hết các chị đều trong tình trạng phải lệ thuộc kinh tế hoặc chỗ ở của người chồng. Khi bị phản bội, không có tiền, không nhà, đi kêu cứu thì được tòa án, chính quyền cho biết là các chị “mất quyền khiếu kiện” vì không đăng ký kết hôn.

Chia sẻ câu chuyện của bà Hân, nhiều khách mời có chung ý kiến: Luật HN&GĐ cần bổ sung quy định về việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. LS Trịnh Thị Bích, Đoàn Luật sư TP.HCM cho biết: “Vì không đăng ký kết hôn, nhiều phụ nữ phải ra khỏi nhà chồng với đôi bàn tay trắng. Trong khi nếu kết hôn, dù lệ thuộc kinh tế vào chồng, chỉ quẩn quanh việc nội trợ, không trực tiếp làm ra tiền, các chị vẫn có thể đề nghị được trả công sức mình đã đóng góp, tạo dựng tài sản chung cho gia đình chồng”.

LS Trương Thị Hòa, Đoàn LS TP.HCM cho rằng: “Ly thân chính là giải pháp “trái độn” khá hiệu nghiệm để hạn chế tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng. Ly thân khi được quy định cụ thể bằng những điều luật như quy định vợ chồng phải ở riêng, người chồng không được gia trưởng, bạo hành với vợ; tài sản chung, tài sản riêng được thanh toán, phân chia cho mỗi người; giải quyết nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái… Tuy nhiên, vì giữa họ vẫn còn quan hệ vợ chồng, nên cả hai phải có nghĩa vụ chung thủy, chưa được có chồng, có vợ khác…”.

Thực tế, dù không có chế định ly thân, nhưng hiện nay, khi xét xử một vụ ly hôn, các vị thẩm phán vẫn dựa vào yếu tố và thời gian ly thân để quyết định “mức độ trầm trọng của hôn nhân”. Bà Trần Thị Như Phương khẳng định: “Đây là một chế định vô cùng cần thiết để bảo vệ triệt để quyền lợi của các thành viên trong gia đình. Luật HN&GĐ của Việt Nam năm 1959, 1986 và 2000 đều “bỏ qua” chế định ly thân. Dự thảo bổ sung, sửa đổi Luật HN&GĐ cần nghiên cứu và đưa vào, nếu không, giữa luật và đời sống sẽ có một khoảng hở. Phụ nữ, trẻ em trong những gia đình trong thời kỳ ly thân sẽ chịu nhiều thiệt thòi”.

Cân nhắc và thận trọng khi bàn bạc từng điều khoản trong Luật HN&GĐ, các khách mời đều nhấn mạnh, dù có bổ sung, sửa đổi luật thế nào, điều trước tiên cũng phải bảo vệ quyền lợi cho trẻ em trong quan hệ hôn nhân. Thạc sĩ - luật gia Hoàng Kim Chiến, Vụ phó Vụ Tư pháp, Phó trưởng Cơ quan đại diện phía Nam của Bộ Tư pháp nhấn mạnh về việc cấp dưỡng nuôi con và thi hành án giao con trong Luật HN&GĐ hiện nay được vận dụng không linh hoạt và làm ảnh hưởng đến tâm lý trẻ. Chỉ tính riêng một tỉnh ở Nam bộ, trung bình một năm trong các loại án dân sự, thì án HNGĐ chiếm 15-20%, trong đó, có khoảng 60-70% là án giao con (khoảng 70-100 vụ, trong đó có 30 vụ phải cưỡng chế, 10 vụ là cực kỳ khó khăn). Ông Chiến cho rằng: “Quy định hỏi ý kiến trẻ “muốn ở với ai” khi cha mẹ ly hôn là một việc không ai giám sát, rất dễ gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý trẻ. Luật HN&GĐ hiện nay quy định, trẻ trên chín tuổi sẽ được tòa hỏi ý kiến, tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, trẻ em ngày nay thông minh, nhận thức sớm hơn nên Luật cần điều chỉnh quy định hỏi ý kiến trẻ từ sáu tuổi về việc muốn sống cùng cha hay mẹ”.

Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, LS Trương Thị Hòa đề xuất cần có chế định cụ thể về chính sách cho bà mẹ đơn thân vì đơn thân đang là một xu hướng, một lối sống đang được nhiều phụ nữ lựa chọn. Do vậy, cần có những quy định pháp lý để bảo vệ những đứa con trong gia đình thiếu cha.

Luật là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất. Nhưng, dù luật quy định nội dung gì, ưu việt, tiên tiến đến đâu, cũng sẽ có lúc bị lỗi thời, không bắt kịp nhịp sống xã hội vốn luôn chuyển biến. Vì vậy, sửa đổi và bổ sung để hoàn thiện Luật HN&GĐ hiện hành cho dễ thực thi là điều cấp bách.

Thực tế cũng cho thấy, có những cá nhân, đơn vị vì thiếu hiểu biết pháp luật đã làm sai, vận dụng sai luật khiến người dân gặp khó khăn, mất niềm tin vào luật pháp. Nhiều người, nhiều phụ nữ không hiểu biết pháp luật để tự bảo vệ và đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của mình, chỉ đến khi có chuyện xảy ra mới “ngã ngửa” và càng lúng túng hơn khi vấn đề của mình gặp phải những kẽ hở của Luật. Luật HN&GĐ là bộ luật chuyên ngành, gắn liền với từng tế bào gia đình nên rất cần bổ sung những điều khoản, quy định mới để phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho mỗi cá nhân trong gia đình.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bi hài chuyện ly hôn chồng ngoại - Bài 1: Tan tành giấc mơ xuất ngoại. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, tại Đà Nẵng nở rộ án ly hôn chồng ngoại với chung một lý do là sau khi đã “no xôi chán chè”, người chồng bỏ về nước rồi biệt tăm biệt tích.

Mới đây, TAND TP Đà Nẵng đã xử một vụ đơn phương xin ly hôn mà tại phiên tòa, không ít người đã phải cười ra nước mắt vì sự cả tin, xuất phát từ sự hám danh rất ngây ngô của một cô gái trẻ.

Theo đơn xin ly hôn của cô TTH (SN 1989), tháng 11-2011, cô và ông E. (quốc tịch Canada) đăng ký kết hôn rồi về chung sống với nhau mà không tổ chức tiệc tùng gì cả vì ông E. bảo: “Qua bển, anh sẽ làm thật hoành tráng cho em”. Sáu tuần sau, ông E. về nước, lấy lý do là chuẩn bị làm “đám cưới hoành tráng” rồi sẽ quay lại rước cô H. qua. Nhưng từ đó ông E. bặt vô âm tín. Nửa năm sau vẫn không thể liên lạc được, gửi thư từ tới địa chỉ của ông E. ghi trong giấy đăng ký kết hôn cũng không có hồi âm, cô H. đành đơn phương xin ly hôn để mong tìm được hạnh phúc mới với tuổi xuân của mình.

Tại phiên xử, khi vị thẩm phán hỏi: “Tại sao chỉ mới kết hôn một năm cô đã ly hôn?”, cô H. trình bày: “Vì bây giờ tôi không biết chồng tôi ở đâu nên phải ly hôn”. Vị thẩm phán hỏi tiếp: “Hai người quen nhau như thế nào?”. Cô H. cho hay: “Chúng tôi quen qua mạng, yêu qua mạng, hai ngày trước ngày đăng ký kết hôn chúng tôi có hẹn gặp nhau”. Rồi cô thản nhiên nói tiếp: “Tôi cứ ngỡ cưới chồng Tây thì mình cũng trở thành… gái Tây, tình yêu trên mạng như vậy cũng… lãng mạn nên mới đồng ý kết hôn”!

Vụ khác, cô NTD (SN 1990) từ TP Huế vào TP Đà Nẵng tìm việc, tình cờ gặp ông S. (Việt kiều Mỹ) trong một lần đi dạo cầu Sông Hàn. Sau gần một tháng làm quen, tìm hiểu, ông S. ngỏ lời muốn cưới cô D. về làm vợ với lời thề non hẹn biển rằng “sau khi cưới, anh sẽ đưa em qua Mỹ sinh sống”.

Tháng 4-2010, cô D. đăng ký kết hôn với ông S. tại quận Hải Châu (TP Đà Nẵng). Nghe chồng nói: “Chỉ cần kết hôn rồi về ở với nhau, không cần cưới hỏi rườm rà gì hết, thế mới là phong cách hiện đại”, cô gái xứ cố đô này cũng răm rắp tin theo, học sống theo “phong cách Tây”, bỏ qua mọi lễ nghĩa truyền thống dù gia đình cô phản đối kịch liệt.

Thế rồi cả hai thuê một phòng trọ tại Đà Nẵng sinh sống. 15 ngày sau, ông S. về nước, để lại lời dặn dò: “Em đừng đi đâu, chờ anh về đón qua Mỹ sinh sống”. Nhưng từ đó cô D. không tài nào liên lạc được với chồng. Một tháng, hai tháng… rồi hai năm, ông S. vẫn bóng chim tăm cá. Cuối cùng cô đành đệ đơn ra tòa xin ly hôn vì không biết ông S. đang làm gì, ở đâu.

Tại phiên sơ thẩm gần đây của TAND TP Đà Nẵng, cô D. rầu rĩ: “Chỉ vì em nhẹ dạ, những mong lấy chồng Việt kiều để cha mẹ nở mày nở mặt. Cứ ngỡ chừng đó sẽ giúp em thoát khỏi cảnh ăn bữa sớm lo cơm bữa chiều, nào ngờ…”.

Cùng cảnh ngộ, cô LTT (ngụ quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng) cũng vì tin ông K. (Việt kiều Úc) nói rằng sau khi cưới sẽ đưa mình qua Úc sinh sống nên chấp nhận kết hôn dù chỉ mới quen vẻn vẹn năm tuần, gặp nhau chưa đầy chục lần, chưa kể bị gia đình cấm cản. Sau chuyến trăng mật, ông K. bỏ về nước với lý do để thu xếp công việc làm ăn cho ổn thỏa trước khi đón cô T. qua. Nhưng rồi ông cũng biệt tăm biệt tích.

Khốn khổ hơn, trước khi ông K. về nước, cô T. đã bán hết toàn bộ số vàng cha mẹ cho làm của hồi môn đưa cho chồng để chuẩn bị chuyến đi dài ngày.



File đính kèm