I- THÔNG TIN NỔI BẬT
1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Khai mạc kỳ họp 15 Ủy ban liên Chính phủ Việt – Nga. Ngày 17/10, tại Thủ đô Moscow, LB Nga, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Phó Thủ tướng thứ nhất LB Nga Igor Ivanovic Shuvalov đã đồng chủ trì kỳ họp thứ 15 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam – Nga về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật.
Phát biểu khai mạc kỳ họp, hai Phó Thủ tướng, Đồng Chủ tịch phân ban đều thống nhất nhận định quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Nga đang phát triển tốt đẹp, nhất là sau khi hai nước vừa nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện. Hợp tác kinh tế - thương mại phát triển năng động với kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều dự kiến khoảng 3 tỷ USD năm 2012. Hai bên nhất trí để tương xứng với nhu cầu và tiềm năng hai nước, cần có những biện pháp mang tính đột phá để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại song phương, trong đó có việc sớm khởi động đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam với Liên minh Thuế quan (Nga – Kazakhstan – Belarus) và thành lập Tổ công tác chung cấp cao nhằm thúc đẩy các dự án giữa hai nước.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và Phó Thủ tướng Igor I. Shuvalov đánh giá cao việc hai bên đã nỗ lực xây dựng và ký kết lộ trình thực hiện Kế hoạch hành động chung trong hợp tác kinh tế thương mại và đầu tư đến năm 2015 trong khuôn khổ khoá họp này. Đồng thời, tiến hành thảo luận, trao đổi ý kiến thúc đẩy một số hợp tác cụ thể trong lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, khoa học kỹ thuật.
Cuộc họp cũng đề cập các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các địa phương của hai nước, đặc biệt giữa các địa phương Việt Nam với khu vực Viễn Đông và TP Saint Peterburg của Nga, coi đây là một trọng tâm triển khai trong thời gian tới.
Các thành viên Ủy ban liên Chính phủ cũng đã dành thời gian để trao đổi, thống nhất các biện pháp thúc đẩy triển khai thực hiện các nội dung hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, ngân hàng, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục, khoa học công nghệ.
2. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Chùa Một Cột lập kỷ lục “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất”. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam cho biết, ngày 10/10/2012, Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất” cho chùa Một Cột.
Đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng và được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngày 28/4/1962, chùa Một Cột được xếp hạng "Di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia".
Ngày 4/5/2006, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập chùa là “Kỷ lục Việt Nam” và đề cử đến Tổ chức Kỷ lục châu Á. Sau thời gian thẩm định để xác lập, ngày 10/10/2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á: “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất” cho chùa Một Cột.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Kế hoạch triển khai thi hành Luật giám định tư pháp. Bài báo đưa tin: Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật giám định tư pháp.
Mục đích của Kế hoạch nhằm xác định trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành trong việc xây dựng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật giám định tư pháp bảo đảm thống nhất, đồng bộ, kịp thời.
Kế hoạch này cũng nhằm xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, các cơ quan tiến hành tố tụng trong tổ chức, hoạt động và quản lý công tác giám định tư pháp, bảo đảm hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng kịp thời, có chất lượng mọi yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng.
Dự kiến, ngay trong quý IV năm 2012, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì tổ chức phổ biến, quán triệt, tập huấn nội dung Luật giám định tư pháp.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ tổ chức rà soát, lập danh mục các văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ do mình chủ trì soạn thảo để phù hợp với Luật giám định tư pháp và gửi kết quả thực hiện về Bộ Tư pháp trước ngày 30/10/2012 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Trong tháng 10/2012, Bộ Tư pháp trình Chính phủ Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật giám định tư pháp.
Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thủ trưởng các cơ quan có liên quan trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành và địa phương mình chủ động, tích cực triển khai thực hiện Kế hoạch này, xây dựng Kế hoạch của Bộ, ngành và địa phương mình để triển khai thực hiện Luật giám định tư pháp theo nhiệm vụ được phân công, bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, tránh hình thức, lãng phí.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Loạn kết quả giám định tư pháp: Thiếu từ con người, phương tiện đến quy định”. Bài báo phản ánh: Luật chưa quy định cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm giám định sau cùng, “chung thẩm” trong trường hợp có nhiều kết quả giám định mâu thuẫn.
Tại các hội nghị tổng kết công tác giám định tư pháp mấy năm qua, chuyện nhân sự thiếu và yếu cơ sở vật chất thiếu thốn, phương tiện lạc hậu, phương pháp giám định khác nhau, quy định chưa rõ… luôn được chỉ ra là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng hiệu quả công việc chưa cao.
Lý giải về việc “loạn” kết quả giám định tư pháp, trong quá trình góp ý cho dự án Luật Giám định tư pháp trước đây, nhiều chuyên gia cho rằng giám định pháp y là ngành khoa học đặc thù nên kết luận khác nhau là dễ chấp nhận bởi còn tùy thuộc vào phương pháp giám định, vào nhiều yếu tố khách quan (thời gian, mẫu vật…). Giám định viên tự chịu trách nhiệm về kết luận của mình, còn việc xem xét tính đúng đắn của kết luận giám định là quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan tố tụng. Tuy nhiên, các lý giải này đã gặp nhiều phản đối bởi cái mà các cơ quan tố tụng cần và phải nhờ đến nhà khoa học vẫn là một kết quả giám định chuẩn xác, kịp thời chứ không phải mang tính “đánh đố”!
Luật Giám định tư pháp đã được Quốc hội ban hành ngày 20-6-2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2013). Tuy nhiên, vẫn có nhiều vấn đề mà luật đang còn bỏ ngỏ, tạo ra những băn khoăn cho người làm công tác tư pháp.
Chẳng hạn có được sử dụng kết quả giám định tiền tố tụng hay không? Thời hạn giám định ra sao, được giám định tối đa mấy lần trong một vụ án, có điểm dừng hay không? Trách nhiệm của tổ chức giám định, giám định viên như thế nào? Cơ chế bồi hoàn ra sao nếu giám định viên đưa kết quả sai lệch?
Đặc biệt, luật chưa quy định cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm giám định sau cùng, mang tính “chung thẩm” trong trường hợp có nhiều kết quả giám định mâu thuẫn. Tức là một vụ việc vẫn có thể bị giám định đi, giám định lại không có điểm dừng và cho ra các kết quả xung đột, làm rối các cơ quan tố tụng.
Theo Luật Giám định tư pháp, trong trường hợp có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì việc giám định lại lần thứ hai do người trưng cầu giám định quyết định và do hội đồng giám định thực hiện. Trong trường hợp đặc biệt, viện trưởng VKSND Tối cao, chánh án TAND Tối cao quyết định việc giám định lại sau khi đã có kết luận của hội đồng giám định. Ngoài ra, nếu như khả năng chuyên môn, điều kiện về trang thiết bị, phương tiện giám định của cá nhân, tổ chức giám định tư pháp trong nước không đáp ứng được yêu cầu giám định thì sẽ yêu cầu cá nhân, tổ chức nước ngoài thực hiện giám định tư pháp.
Vấn đề là ngay cả trong trường hợp đặc biệt mà viện trưởng VKSND Tối cao, chánh án TAND Tối cao quyết định việc giám định lại thì kết quả giám định lại này có phải là kết quả sau cùng hay không, do tổ chức nào thực hiện; kết quả giám định của cá nhân, tổ chức nước ngoài có mang tính “chung thẩm” hay không... đều chưa rõ ràng.
3. Báo Phụ nữ Online có bài Cha không cấp dưỡng vì mẹ đổi tên con?. Bài báo phản ánh: Bà N.N.A., ngụ P.Hiệp Phú, Q.9, TP.HCM khiếu nại Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) Q.3 không thi hành bản án ly hôn theo quyết định 122/2010/QĐDS - HNGĐ do TAND Q.9 ban hành ngày 4/5/2010.
Bà A. trình bày, tháng 4/2012, Chi cục THADS Q.9 ủy thác cho Chi cục THADS Q.3 thực hiện THA đối với ông N.P.L. (chồng cũ của bà). Theo đó, ông L. có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con (cháu N.C.B.), mỗi tháng 1,5 triệu đồng, kể từ tháng 2/2011 cho đến khi thành niên. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Cẩm là chấp hành viên (CHV) được phân công thụ lý vụ việc lại không tổ chức thi hành ngay bản án mà còn gọi hai bên lên thỏa thuận, yêu cầu bà A. phải thỏa thuận xong với ông L. các yêu cầu mới được THA.
Theo bà A., ông L. có những yêu cầu vô lý với bà như: Trong một tháng, ông L. có một ngày được quyền chở con đi đâu bà không được thắc mắc và không có sự giám hộ của bà A. Hai là, số tiền 1,5 triệu cấp dưỡng cho con, bà A. không được phép sử dụng. Đã vậy, Chi cục THADS Q.3 không chuyển khoản tiền mà buộc bà phải lên THA nhận.
Ông L. trình bày với cơ quan THA, ông không đồng ý cấp dưỡng vì bà A. thường xuyên cấm đoán, cản trở quyền thăm nom, chăm sóc con của ông. Ngày 4/5/2010, TAND Q.9 ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn của ông và bà A., trong đó quy định rõ con chung của hai người là N.C.B. được bà A. trực tiếp nuôi dưỡng, còn ông L. “có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu”. Tuy nhiên, ngày 22/10/2010, bà A. đã tự tiện đổi tên con từ N.C.B. thành N.C.D., trùng tên với ông ngoại của ông L. (theo bản khai sinh mới số 249/quyển số 1, UBND Q.9 cấp). Chính vì vậy, ông L. yêu cầu tạm ngừng việc cấp dưỡng hàng tháng.
Luật sư Nguyễn Quốc Dũng - Đoàn Luật sư TP.HCM cho biết, việc CHV cho các đương sự thỏa thuận trước khi THA là không vi phạm, vì theo khoản 1, điều 6 Luật THADS: đương sự có quyền thỏa thuận việc THA, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả THA theo thỏa thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, CHV có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về THA.