I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Sài Gòn giải phóng Online đưa tin Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục phiên họp thứ 12: Bàn về tình hình kinh tế, xã hội và ngân sách. Tuần này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) sẽ tiếp tục phiên họp thứ 12 theo nghị trình đã định, bắt đầu từ ngày mai 16-10.
Trong khuôn khổ phiên họp, UBTVQH sẽ cho ý kiến về các báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012; phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch năm 2013; Báo cáo của Chính phủ về kết quả rà soát mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian thực hiện và nguồn lực cụ thể của các dự án thành phần thuộc từng Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 và phương án phân bổ Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2013 - 2015.
Các báo cáo công tác năm 2012 của Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; Báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án, về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2012 cũng sẽ được UBTVQH xem xét, góp ý tại phiên họp này.
Ở mảng công tác xây dựng pháp luật, UBTVQH cho ý kiến về dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và hai dự án luật (gồm Luật Hợp tác xã (sửa đổi); Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực).
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Điện tử Chính phủ có bài Xung quanh việc đăng ký khai sinh có chữ ký cha, mẹ. Bài báo phản ánh: Theo hướng dẫn tại Thông tư số 05/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp, từ ngày 10/7/2012, trên tờ khai đăng ký khai sinh có cả chữ ký của cha và mẹ. Theo ghi nhận của phóng viên Cổng TTĐT Chính phủ, thực tế triển khai quy định này, người dân và cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cơ sở còn gặp một số khó khăn.
Chị Nguyễn Thanh Quý, giáo viên cấp 1 tại tỉnh Thái Bình hiện đang mang thai tháng thứ 7. Chồng chị vừa đi xuất khẩu lao động bên Hàn Quốc được 2 tháng. Chị Quý băn khoăn: “Trường hợp của tôi thì sẽ làm giấy khai sinh cho con như thế nào? Chồng tôi đi xuất khẩu lao động với thời hạn 2 năm mới được về nước”.
Còn trường hợp của chị Hoàng Ngọc Bích, nhân viên Ngân hàng Techcombank, Hà Nội vừa mới sinh con được 2 tuần. Chị Bích có hộ khẩu ở Nam Định còn chồng chị có hộ khẩu ở Bắc Giang. “Nếu giấy khai sinh phải có cả chữ ký của cha, mẹ thì đồng nghĩa với việc tôi và chồng tôi sẽ phải về Nam Định làm giấy khai sinh cho cháu. Để đăng ký được giấy khai sinh cho con, chồng tôi sẽ phải nghỉ làm ít nhất 1 ngày, còn tôi vừa mổ đẻ xong nhưng phải cùng chồng về Nam Định, thực sự rất bất tiện”, chị Bích bày tỏ.
Là người trực tiếp làm ở bộ phận đăng ký khai sinh, bà Nguyễn Thị Chi, cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã Phương Công, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình cho hay, Phương Công là địa phương có số người đi làm ăn xa khá lớn, quy định mới về việc cha mẹ phải ký tên trong tờ khai đăng ký khai sinh đã gây một số khó khăn cho công tác khai sinh trên địa bàn. Khi cán bộ xã yêu cầu phải có chữ ký cha mẹ của trẻ, người dân đề nghị được mang tờ khai về nhà để khai.
“Mặc dù cán bộ xã biết có trường hợp chữ ký của cha mẹ trên tờ khai là chữ ký khống, nhưng cũng không thể chứng minh được và nếu làm khắt khe thì việc khai sinh sẽ bị chậm trễ”, bà Chi nói.
Từ thực tế công việc chuyên môn, bà Trịnh Thị Nhâm, cán bộ xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk chia sẻ, xã Hòa Lễ có đặc trưng của địa hình cao nguyên, có những khu vực chủ yếu là núi cao, giao thông đi lại không thuận tiện. Dân cư đa dạng, chủ yếu là người Ê Đê, Chàm, Cao Lan, Tày, Nùng, Thái… do đó, từ trước đến nay, công tác khai sinh, vận động khai sinh cho con em các dân tộc này cũng đã gặp khó khăn.
Đồng quan điểm cho rằng nếu bắt buộc phải có cả chữ ký của cha, mẹ thì việc khai sinh sẽ mất thời gian hơn trước, nên theo ông Hoàng Việt Cường, cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội và bà Trần Thị Hoa, cán bộ phường Thanh Bình, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng, có thể quy định chỉ cần có chữ ký của mẹ hoặc của cha trên tờ khai đăng ký khai sinh.
Trao đổi với phóng viên Cổng TTĐT Chính phủ về một số vướng mắc nêu trên, ông Nguyễn Công Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp - Bộ Tư pháp cho biết: Về nguyên tắc, Tờ khai đăng ký khai sinh phải có cả chữ ký của cả cha và mẹ để đảm bảo cha và mẹ đã thống nhất về các nội dung khai sinh như: Việc đặt tên cho con, việc chọn họ cho con (theo họ cha hoặc mẹ), việc chọn quốc tịch cho con (theo quốc tịch của cha hoặc mẹ).
Tuy nhiên, trong những trường hợp cha hoặc mẹ vì lý do khách quan (đi công tác, làm ăn xa, cha hoặc mẹ bị mất năng lực hành vi dân sự...) không thể trực tiếp ký vào Tờ khai thì chỉ cần chữ ký của một người, nhưng người ký phải cam đoan về việc đã trao đổi và thống nhất về nội dung khai sinh.
Trường hợp trẻ em là con ngoài giá thú chưa xác định được người cha thì trong Tờ khai phải có chữ ký của người mẹ, trường hợp người mẹ vì những lý do khách quan (như đã nêu trên) không thể trực tiếp ký vào Tờ khai thì người đi khai sinh ký vào Tờ khai.
Ông Nguyễn Công Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp - Bộ Tư pháp cũng nhận định, hướng dẫn đăng ký khai sinh đã có độ mở, đó là việc cha mẹ có thể ký trước trong Tờ khai đăng ký khai sinh, không cần chứng thực chữ ký, người đi khai sinh tự chịu trách nhiệm tính xác thực về chữ ký của cha, mẹ. Người đi khai sinh chỉ phải ký trong trường hợp người đi khai sinh không phải là cha, mẹ.
2. Báo Nhân dân điện tử có bài Phiếu lý lịch tư pháp: Luật còn làm khó địa phương. Bài báo phản ánh: Sau hai năm triển khai việc thi hành Luật Lý lịch tư pháp tại các địa phương, rất nhiều khó khăn vướng mắc trong công tác này nẩy sinh. Nhân lực, cơ sở vật chất thiếu trong khi một số quy định của Luật còn “làm khó” địa phương.
Bà Đỗ Thị Thúy Lan, Phó Giám đốc Trung tâm Lý lịch tư pháp Quốc gia cho biết, sau hai năm thi hành Luật, việc xây dựng các văn bản hướng dẫn vẫn còn chậm, chưa giải quyết dứt điểm tình trạng Luật chờ Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP vẫn khó khăn, lúng túng.
Mặc dù Luật Lý lịch tư pháp, Luật Thi hành án hình sự đã quy định rất cụ thể nhiệm vụ của các cơ quan liên quan trong việc cung cấp thông tin LLTP cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu, nhưng lại thiếu quy định cơ chế bảo đảm thực hiện nhiệm vụ. Điều này dẫn đến một thực tế, nhiều địa phương, cơ quan tòa án, cơ quan có liên quan chưa gửi thông tin LLTP cho Sở Tư pháp. Ngay cả một số Sở Tư phápcũng chưa thực hiện việc cung cấp thông tin cho Trung tâm LLLTP Quốc gia.
Bà Vũ Thị Như Hoa- Phó Giám đốc Sở Tư pháp Đà Nẵng cho biết, hiện nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật hay Quy chế, quy trình chuẩn hướng dẫn việc xây dựng quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cũng như công tác tiếp nhận, xử lý, cập nhật thông tin LLTP.
“Tại TP Hồ Chí Minh đã và đang thực hiện có hiệu quả chủ yếu là học tập kinh nghiệm từ cơ quan công an, nhưng so với Dự thảo Thông tư của Bộ Tư pháp thì cũng có những điểm khác nhau, nếu phải áp dụng thực hiện thìcũng gặp khá nhiều khó khăn”, ông Nguyễn Quốc Thắng, đại diện Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh chia sẻ.
Một trong những vấn đề vướng mắc là việc “đương nhiên được xóa án tích”.
Điều 33 Luật Lý lịch tư pháp quy định “khi xác định người bị kết án có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự thì ghi đã được xóa án tích vào lý lịch tư pháp của người đó”. Trong khi Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định thẩm quyền xóa án tích thuộc về tòa án. Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong luật, cùng một việc mà có hai cơ quan thực hiện, một cơ quan xét xử và một cơ quan hành chính.
Theo bà Nguyễn Thị Huệ - Trưởng phòng Hành chính – Tư pháp, Sở Tư pháp Hòa Bình “ thực thi các quy định của Luật LLTP cũng giống như đang tự đi vào rừng rậm, chưa có đườn, vừa đi vừa tìm”. Cấp phiếu LLTP của Sở Tư pháp thực chất dựa vào kết quả tra cứu tàng thư của ngành công an. Khi có kết quả tra cứu, cơ quan công an gửi phiếu xác minh LLTP cho Sở Tư pháp để Sở cấp cho người có yêu cầu. Do đó thời gian cấp cho công dân thường bị kéo dài hơn rất nhiều so với quy định. “Nhanh nhất cũng phải 30 ngày dù Luật quy định chỉ 10 ngày. Nên chúng tôi thường phải câu thời gian trả kết quả…”. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở các địa phương”.
Một chuyên viên của Phòng LLTP, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi cho biết, quy định miễn phí cấp phiếu LLTP còn chưa phù hợp. “Những người phụ nữ lấy chồng đi biển ở Quảng Ngãi không lao động mà chủ yếu là ở nhà làm việc nhà nhưng lại được miễn phí vì thuộc hộ nghèo trong khi những người có công với cách mạng lại chỉ được miễn cho một nửa. 200.000 có thể không phải là nhiều nhưng với đồng lương trợ cấp hàng tháng 180.000 /tháng của những người đã hy sinh, công hiến nhiều cho đất nước thì đây quả là một vấn đề”.
Các ý kiến của các địa phương tại buổi tọa đàm cũng cho thấy, việc triển khai luật cũng gặp nhiều khó khăn từ nguồn biên chế cán bộ làm công tác tư pháp còn thiếu và chưa đáp ứng được về số lượng và chất lượng.
3. Báo Người lao động có bài Trả hơn 600 triệu đồng bồi thường cho 7 người bị oan. Sau thời gian dài chờ đợi, cuối cùng 7/9 người bị bắt oan cũng được đại diện cơ quan giải quyết bồi thường oan sai là VKSND huyện Đồng Phú - Bình Phước trả tiền bồi thường thiệt hại cho người bị oan theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Ngày 14-10, gia đình những thanh niên bị bắt oan trong vụ “Giam nhiều người chỉ dựa vào lời khai” (Báo Người Lao Động đã có loạt bài phản ánh từ ngày 22-2-2010), cho biết đã nhận được tiền bồi thường do VKSND huyện Đồng Phú chuyển cho luật sư Dương Vĩnh Tuyến (thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Phước) trao trả cho người bị oan theo ủy quyền.
Theo đó, Lương Văn Trọng (SN 1990), nhận 75,6 triệu đồng (số làm tròn), Lương Văn Sang (SN 1989) nhận 80,3 triệu đồng, Lương Văn Hận (SN 1993, là ba anh em ruột) nhận 78,6 triệu đồng; Trương Quang Lâm (SN 1990, cả 4 cùng ngụ xã Nghĩa Trung, Bù Đăng), nhận 79 triệu đồng. Đỗ Văn Đại (SN 1991) nhận 80,4 triệu đồng, Lê Văn Huy (SN 1991) nhận 80,4 triệu đồng, Nguyễn Như Tùng (SN 1992, cả 3 cùng ngụ xã Phú Trung, Bù Gia Mập) được bồi thường 118,3 triệu đồng.
Trước đó vào tháng 5-2012, VKSND huyện Đồng Phú cũng đã tổ chức xin lỗi công khai những người bị bắt oan ngay nơi thường trú của họ.
Riêng trường hợp anh Phan Văn Thương (SN 1989, ngụ xã Phú Trung, Bù Gia Mập), do thương lượng không thành nên khởi kiện ra tòa và qua 2 lần hòa giải, VKSND huyện Đồng Phú đã ban hành quyết định bồi thường thiệt hại cho người bị oan theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước vào ngày 10-7 với tổng số tiền 287.137.155 đồng. Thế nhưng đến nay đã hơn 3 tháng gia đình anh Thương vẫn chưa được bồi thường!
Riêng trường hợp anh Nguyễn Văn Hùng (SN 1993) do phóng viên không liên lạc được nên không thể biết chính xác được về số tiền anh được bồi thường.
4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Xác định rõ nguyên tắc “ Quyền con người, quyền cơ bản của công dân”. Bài báo phản ánh: Tại TP.HCM, Liên đoàn luật sư Việt Nam vừa tổ chức hội thảo “Một số vấn đề cơ bản trong góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992”, các đại biểu tham dự đã thảo luận, đề xuất quan điểm nội dung, kỹ thuật cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp theo hai chủ đề: “Quyền con người, quyền cơ bản của công dân” và “Nguyên tắc bảo đảm.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, Hiến pháp 1992 “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” được quy định tại Chương V đánh dấu một bước phát triển mới về nội dung và hình thức trên cơ sở đổi mới tư duy pháp lý. Trong đó, xác định những quyền và nghĩa vụ cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Về pháp lý, những quyền này của công dân là các quyền hiến định. Như vậy, tổng thể các quyền của công dân trong Hiến pháp được hiểu là do Nhà nước quy định. Phạm vi các quyền cơ bản của công dân phụ thuộc vào Hiến pháp, có nghĩa là Hiến pháp không quy định thì công dân không thể có quyền. Điều này được PGS - TS. Nguyễn Như Phát – Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật cho rằng, cách quy định các quyền trong Hiến pháp 1992 vẫn theo tư duy cũ, thể hiện tư tưởng “Nhà nước ban phát quyền” cho dân. Trong khi đó, về bản chất, quyền con người là một thuộc tính tự nhiên, vốn có mà không phải là kết quả của sự ban phát nào.
Để làm rõ mối quan hệ giữa quyền con người và quyền cơ bản của công dân, Luật sư Vũ Bá Thanh – Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết: Đề cao xem xét mở rộng quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp sửa đổi và xác định rõ ghi nhận rõ trong Hiến pháp để Nhà nước hay công chức của Nhà nước thực hiện nhiệm vụ cho thuận lợi và phải ghi đầy đủ, chi tiết về quyền này. Ghi vào thì việc tổ chức thực hiện và việc bảo vệ quyền ấy được thuận lợi và hiệu quả.
Liên quan đến vấn đề quyền còn người, quyền cơ bản của công dân, nhiều ý kiến cho rằng; Công dân phải được quyết đoán… những vấn đề quan trọng của đất nước. Cần xác định rõ nguyên tắc trong Hiến pháp những gì pháp luật không cấm thì công dân được làm. Một vấn đề liên quan đến quyền lợi ích cơ bản của công dân, được các đại biểu nêu: Phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước và những người được giao thực hiện quyền lực Nhà nước, có cơ chế xử lý hành vi vi phạm pháp luật, hành vi vi hiến, cơ chế bảo đảm được hưởng quyền cơ bản công dân trọn vẹn và đúng pháp luật...
Ngoài ra, Hiến pháp 1992 còn thiếu vắng nhóm quy định trách nhiệm của Nhà nước về cơ chế bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân; cần có những quy định rõ ràng, không bỏ lửng, không mập mờ. Cạnh đó, nhiều đại biểu tán thành với ý kiến của PGS-TS. Nguyễn Như Phát nên cơ cấu lại toàn bộ Chương V (Hiến pháp 1992) và đặt vào vị trí Chương II của Hiến pháp sửa đổi.
Quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa (gọi chung là “quyền bào chữa”) là một trong những quyền và tự do cơ bản của công dân, đã được quy định rõ ràng trong Hiến pháp. Đặc biệt, Nhà nước cũng đã quan tâm đến việc bảo đảm quyền của những người bị tình nghi phạm tội, trong đó quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa được coi là một trong những quyền Hiến định. Tuy nhiên, có một điều chưa được lý giải thấu đáo ở chỗ, vì sao điều khoản quy định về quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa trong các bản Hiến pháp “không được quy định tại chương về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, mà được đặt ở vị trí trong chương về tổ chức bộ máy của Tòa án?”.
Theo quan điểm của TS.Luật sư Phan Trung Hoài – UVBTV, Chủ nhiệm Uỷ ban Bảo vệ quyền lợi luật sư: Trong quá trình nghiên cứu và sửa đổi Hiến pháp 1992 sắp tới, xuất phát từ nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền bào chữa được coi như thành trì cần thiết bảo đảm thực hiện các quyền và tự do cơ bản khác; cần điều chỉnh vị trí điều luật quy định về quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa, cùng với chế định luật sư từ chương về tổ chức Tòa án sang chương quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; thoát ly khỏi quan niệm coi hoạt động luật sư chỉ trong phạm vi bổ trợ tư pháp. Việc mở rộng quyền Hiến định này phù hợp với bản chất, phạm vi hoạt động nghề nghiệp và chức năng xã hội của Luật sư ở nước ta hiện nay – Luật sư Hoài nói.
5. Báo Dân Việt có bài Mâu thuẫn từ góp ý phê bình?. Bài báo phản ánh: Sau 2 bài báo liên quan đến việc “Chánh Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Ninh bị tố cướp chồng” được đăng tải trên Báo NTNN ngày 2 và 3.8, Ban Biên tập Báo NTNN đã nhận được phản hồi của bà Vũ Thị Hương - Chánh Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Ninh và ông Nguyễn Hồng Trường - nguyên Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Ninh về vấn đề trên.
Cả hai cho rằng, họ bị trả thù vì đã có những góp ý thẳng thắn với tập thể cấp ủy và cá nhân lãnh đạo Sở Tư pháp theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4.
Như Báo NTNN đã đưa tin, ngày 24.7.2012, bà Trần Thị Chiến (trú tại tổ 3A, khu 4A, phường Hồng Hải, TP. Hạ Long, Quảng Ninh) có đơn gửi Báo NTNN tố cáo bà Vũ Thị Hương - Chánh Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Ninh, có hành vi cướp chồng và phá hoại hạnh phúc gia đình bà. Theo đơn tố cáo, bà Chiến cho rằng bà Hương đã quan hệ bất chính với chồng bà là ông Nguyễn Hồng Trường - nguyên Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh từ năm 2000.
Sau khi nội dung tố cáo của bà Chiến được phản ánh trên Báo NTNN, ngày 24.8.2012, Báo NTNN lại nhận được một lá đơn khác của bà Chiến xin rút lại đơn tố cáo trên. Trong lá đơn này, bà Chiến cho biết mình viết đơn trong tình trạng bị người khác xúi giục và kích động mạnh. Đồng thời Báo NTNN cũng nhận được đơn kêu cứu liên quan đến vụ việc của bà Vũ Thị Hương.
Để tìm hiểu rõ hơn sự việc trên, phóng viên NTNN đã có buổi làm việc với ông Nguyễn Hồng Trường tại Văn phòng Công chứng Hạ Long ở số 494 đường Nguyễn Văn Cừ, phường Hồng Hải, TP. Hạ Long. Ông Trường chia sẻ: “Khi sự việc xảy ra, tôi không hiểu vì sao sau khi tôi về hưu đã 3 năm mới có đơn tố cáo chuyện cũ của tôi. Suy nghĩ mãi, tôi mới hiểu ra là Ban Giám đốc và Đảng ủy Sở Tư pháp có đề nghị tôi đóng góp ý kiến thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 của Đảng. Tôi đã góp ý thẳng thắn, trung thực những suy nghĩ của mình với tập thể và lãnh đạo Sở nhưng không ngờ lại được đáp trả như vậy. Thế mới biết để thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 khó khăn biết chừng nào”.
Sau khi xảy ra sự việc có đơn tố cáo ông Trường quan hệ bất chính với bà Chánh Thanh tra Sở Tư pháp, ông Trường đã có đơn gửi Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Ninh đề nghị làm rõ vấn đề này. Trao đổi với phóng viên NTNN, ông Nguyễn Đình Tuấn - Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Ninh cho biết: “Chúng tôi đã nhận được đơn của đồng chí Nguyễn Hồng Trường.
Những gì đồng chí Trường góp ý cho tập thể, cá nhân ở Sở Tư pháp, chúng tôi sẽ chỉ đạo Đảng bộ Sở kiểm điểm theo Nghị quyết T.Ư 4. Với những đơn thư tố cáo có danh, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy sẽ thống nhất với Ban cán sự Đảng và UBND tỉnh làm rõ, giải quyết theo quy trình. Tôi vừa ký quyết định kiểm tra dấu hiệu vi phạm toàn diện của Sở Tư pháp, những việc này cần phải làm rõ ràng thì mới duy trì được sự đoàn kết, thống nhất và ổn định”.
6. Báo Tuổi trẻ Online có bài Xem xét kỷ luật GD, PGĐ Sở Tư pháp Cần Thơ. Bài báo phản ánh: Bà Ngô Hồng Yến - bí thư Đảng ủy Khối cơ quan Dân Chính Đảng TP Cần Thơ - cho biết đơn vị này vừa làm xong quy trình kiểm điểm kỷ luật Đảng đối với ông Nguyễn Thành Đông, giám đốc Sở Tư pháp TP Cần Thơ và Trần Phước Hoàng, phó giám đốc.
Theo đó, Ban thường vụ Đảng ủy khối đã bỏ phiếu kín lấy kết quả gửi Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Cần Thơ xem xét quyết định hình thức kỷ luật vì hai cán bộ này thuộc diện Thành ủy quản lý. Đa số phiếu chọn hình thức khiển trách về mặt Đảng đối với hai cán bộ này.
Ông Đông và ông Hoàng bị kiểm điểm theo quy định về trách nhiệm người đứng đầu để xảy ra tiêu cực, tham nhũng tại cơ quan. Trước đó, TAND TP Cần Thơ đã tuyên phạt Phạm Thanh Dũng - nguyên phó phòng hành chính tư pháp, Sở Tư pháp TP Cần Thơ - mức án chung thân vì tội nhận hối lộ số tiền trên 4,1 tỉ đồng.
III- THÔNG TIN KHÁC
Báo điện tử Công thương có bài Tách chức năng quản lý tại DNNN: Bất khả thi?. Bài báo phản ánh: Nhiều chuyên gia, luật gia, luật sư, nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, việc tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước trong quản lý các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là nhiệm vụ bất khả thi.
Một trong những giải pháp quan trọng để đổi mới công tác quản trị các DNNN được nêu trong “Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế” là tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước và chức năng giám sát độc quyền trong kinh doanh của các cơ quan hành chính nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện Đề án tách chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước.
Nhiều chuyên gia, luật gia, luật sư, nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, việc tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước trong quản lý các DNNN là nhiệm vụ bất khả thi. Bởi lẽ, vốn trong các DNNN là của nhà nước. Đại diện chủ sở hữu của DNNN, tùy theo quy mô của doanh nghiệp (DN), là Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng các bộ (hoặc cơ quan ngang bộ) quản lý ngành, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đó là những quan chức, những chính khách, không phải là những nhà kinh doanh, không phải là đại diện theo pháp luật của DN, nhiệm vụ chính của họ là quản lý kinh tế- xã hội trong phạm vi vĩ mô thuộc lĩnh vực được giao. Họ không đủ điều kiện (ít nhất là thời gian) để tham gia trực tiếp trong quản lý DN. Song, họ lại có quyền và trách nhiệm rất lớn trong cuộc sống và trong việc bảo toàn, phát triển số vốn của DNNN mà họ được giao làm chủ sở hữu. Vì vậy, việc sử dụng quyền lực hành chính để chi phối hoạt động kinh doanh của DNNN là điều khó tránh khỏi và rất khó có ranh giới để đánh giá là đúng, sai.
Hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các DNNN không phải là đại diện chủ sở hữu mà chỉ quản lý theo ủy quyền của chủ sở hữu hay nói cách khác, họ cũng chỉ là những “lao động làm thuê” cho đại diện chủ sở hữu. Vì vậy, nếu đại diện chủ sở hữu chỉ ủy quyền hạn chế cho hội đồng thành viên, hội đồng quản trị thì việc điều hành hoạt động kinh doanh sẽ gặp khó khăn, thậm chí là ách tắc. Song, nếu ủy quyền với mức độ cao và phạm vi rộng thì chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng tùy tiện trong đầu tư, chi tiêu và đại diện chủ sở hữu sẽ mất quyền kiểm soát.
Quan trọng hơn, khi xảy ra mất vốn trong DNNN, sẽ không thể quy được trách nhiệm cho ai. Bởi, đại diện chủ sở hữu không trực tiếp điều hành DN và thường là những cán bộ có chức, có quyền trong các cơ quan của Đảng, Quốc hội. Vì vậy, quy trách nhiệm cho những cán bộ này là không thể trong điều kiện ở nước ta hiện nay.
Và, người chịu thiệt hại chính là nhân dân- những người đã lao động vất vả, tạo ra thu nhập và đóng thuế cho nhà nước. Có thể khẳng định rằng, trong Đề án tái cấu trúc DNNN, “nút thắt” về chức năng quản lý khó tháo gỡ hơn cả, nếu không nói là không thể tháo gỡ được.
Con đường ngắn nhất hiện nay là đẩy nhanh hơn nữa tốc độ cổ phần hóa DNNN. Hơn nữa, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân trong các DNNN chỉ có nhiệm vụ thuần túy kinh doanh, cần nghiên cứu, ban hành khung pháp lý để chuyển đổi các Công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu hiện nay thành các Công ty TNHH một thành viên hoặc Công ty TNHH hai thành viên trở lên với sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân, để các DN này có chủ sở hữu thực sự. Khi đó, “nút thắt” nêu trên tất yếu sẽ không còn, tình trạng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền kinh doanh, sự méo mó trong quan hệ kinh doanh như hiện nay cũng sẽ dần dần biến mất theo quy luật của kinh tế thị trường.