Điểm tin báo chí sáng ngày 08 tháng 10 năm 2012

08/10/2012
Trong buổi sáng ngày 08/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Trang tin điện tử Quốc hội đưa tin Phiên họp thứ Mười hai của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chiều 6.10, dưới sự điều khiển của Phó chủ tịch QH Uông Chu Lưu, UBTVQH đã cho ý kiến vào Tờ trình QH về Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn; cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng, ý kiến còn khác nhau của dự án Luật Thủ đô. 

Theo Tờ trình QH về Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn do Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc trình bày, việc xây dựng Nghị quyết này là nhằm tăng cường hiệu quả giám sát, bảo đảm để QH, HĐND thực hiện tốt hơn trách nhiệm của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan đại biểu của nhân dân, thay mặt nhân dân giám sát người giữ các chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Qua đó, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của những người này trước QH, HĐND cũng như trước cử tri cả nước và từng địa phương. Việc xây dựng Nghị quyết nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác cán bộ; bổ sung căn cứ để thực hiện công tác quy hoạch, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả, đúng người, đúng việc... Ngoài ra, kết quả của lấy phiếu tín nhiệm sẽ là một căn cứ để UBTVQH, Thường trực HĐND trình QH, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn.

Theo Tờ trình, việc xây dựng quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn phải được tiến hành trên cơ sở các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ và yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng, quy định của Hiến pháp và pháp luật về bỏ phiếu tín nhiệm. Cùng với đó, quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm phải được thực hiện một cách dân chủ, công bằng, công khai, khách quan, có cơ sở pháp lý...

Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết của QH về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn do Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý trình bày, cơ bản tán thành với sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết cũng như mục đích và yêu cầu đối với công tác này. Cụ thể, cơ quan thẩm tra tán thành với việc mở rộng phạm vi quy định về quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm không chỉ đối với người giữ các chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn mà còn đối với cả những người giữ chức vụ do HĐND bầu để có thể sớm triển khai đồng bộ việc lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm từ Trung ương đến địa phương.

Về phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm, hiện nay có hai loại ý kiến khác nhau. Một số ý kiến tán thành với quy định về phạm vi những người được lấy phiếu tín nhiệm bao gồm toàn bộ những người do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn như trong dự thảo Nghị quyết. Tuy nhiên, đa số ý kiến trong Ủy ban Pháp luật cho rằng, lấy phiếu tín nhiệm định kỳ chỉ nên đặt ra đối với những người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn. Việc mở rộng phạm vi người được lấy phiếu tín nhiệm ra tất cả những người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn bao gồm cả thành viên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH, Đoàn Thư ký Kỳ họp QH... là quá dàn trải, dễ làm cho hoạt động này trở nên hình thức.

Về định kỳ lấy phiếu tín nhiệm, UBTVQH cơ bản tán thành quy định QH, HĐND tổ chức lấy phiếu tín nhiệm định kỳ tại kỳ họp đầu tiên kể từ năm thứ hai của nhiệm kỳ. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của QH, các Ban của HĐND tổ chức lấy phiếu tín nhiệm định kỳ hàng năm tại phiên họp toàn thể của cơ quan mình. Cũng có ý kiến đề nghị chỉ nên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm 2 lần trong một nhiệm kỳ của QH, HĐND vì cho rằng thời gian một năm là quá ngắn, chưa đủ để người giữ chức vụ thể hiện được khả năng của mình. Hơn nữa, việc lấy phiếu đánh giá quá thường xuyên dễ tạo tâm lý dĩ hòa vi quý, e dè, ngại đổi mới, khó có thể tạo ra những bước chuyển đột phá tích cực trong công việc. Chủ nhiệm VPQH Nguyễn Hạnh Phúc đề nghị, nên lấy phiếu tín nhiệm vào kỳ họp cuối năm kể từ năm thứ nhất của nhiệm kỳ, vì nếu tổ chức lấy phiếu tín nhiệm vào kỳ họp đầu tiên kể từ năm thứ hai của nhiệm kỳ là thời điểm giữa năm, thì sẽ làm mất tính thời sự của công việc quan trọng này.

Theo Báo cáo về việc tiếp thu ý kiến của UBTVQH chỉnh lý dự án Luật Thủ đô do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày, các thành viên UBTVQH tán thành sự cần thiết ban hành Luật Thủ đô, bố cục dự thảo luật, nguyên tắc xác định và phạm vi các lĩnh vực đặc thù quy định trong dự thảo Luật. Về nội dung của dự thảo Luật, nhiều ý kiến nhất trí với đề xuất và phương án lựa chọn của Chính phủ. Tuy nhiên, cũng còn có ý kiến cho rằng nhiều quy định quan trọng khác của dự thảo Luật còn chung chung, chưa mang tính quy phạm; một số cơ chế chính sách được đề ra nhưng mang tính nguyên tắc, chưa quy định rõ chế độ, định mức được quy định cụ thể ngay trong Luật.

Dưới góc độ cơ quan chủ trì thẩm tra dự án Luật Thủ đô, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý nêu rõ, để có thể khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh phát triển Thủ đô thì cần thiết phải có một số cơ chế, chính sách đặc thù. Hiện nay, một số tồn tại trong xây dựng, quản lý và phát triển Thủ đô thời gian qua còn có nguyên nhân chủ qua là do công tác thi hành pháp luật chưa nghiêm... Do vậy, bên cạnh việc banh hành Luật Thủ đô, Chính phủ và các cơ quan hữu quan cần sớm chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý và thi hành pháp luật trên địa bàn Thủ đô.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Hà Nội mới Online có bài Bộ Tư pháp sẽ thí điểm thi tuyển lãnh đạo. Bài báo phản ánh: Ngày 4-10, Bộ Tư pháp cho biết, từ năm 2013 sẽ triển khai thí điểm thi tuyển công chức lãnh đạo tại 13 đơn vị trực thuộc như Văn phòng bộ, Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Vụ Pháp luật quốc tế, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Vụ Tổ chức cán bộ...

Ứng viên dự tuyển vào vị trí lãnh đạo cấp vụ, phòng ở Bộ Tư pháp sẽ phải trình bày và bảo vệ đề án trước hội đồng thi tuyển về kỹ năng lãnh đạo lĩnh vực quản lý nhà nước dự kiến được giao phụ trách. Sau đó, trả lời chất vấn trực tiếp về điều hành công việc, xử lý tình huống… Giai đoạn 2014 - 2015, Bộ Tư pháp sẽ triển khai thi tuyển cán bộ với nhiều chức danh khác nhau ở các đơn vị còn lại. Sau thí điểm sẽ tổ chức đánh giá và triển khai đại trà từ năm 2016. Đây là hoạt động được kỳ vọng sẽ góp phần tạo môi trường làm việc cạnh tranh lành mạnh, tăng động lực và tính thu hút, góp phần giữ chân những CBCC có năng lực và phẩm chất tốt.

2. Báo Thanh niên Online có bài “Lơ lửng” vụ án trạm xăng. Bài báo phản ánh: Vụ án “Ra quyết định trái pháp luật” xảy ra tại Chi cục Thi hành án dân sự TP.Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng cách đây 2 năm từng gây xôn xao dư luận, nhưng đến nay vẫn còn “lơ lửng” trong những rắc rối pháp lý.

Vụ án được Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao (Cục 6) ra quyết định khởi tố từ ngày 1.10.2010. Đến ngày 14.6.2011 Cục 6 mới ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Long Vân, chấp hành viên, Phó trưởng thi hành án dân sự (THADS) Đà Lạt (sau này là Chi cục THADS Đà Lạt).

Theo kết luận điều tra số 15/VKSTC-C6 (P4), bị can Nguyễn Long Vân được phân công thụ lý thi hành 2 bản án dân sự mà TAND TP.Đà Lạt buộc bà Phạm Thị Hồng (ngụ 357 Phan Đình Phùng, TP.Đà Lạt) phải trả cho bà Th. và bà M. số tiền hơn 48 tỉ đồng. Trong quá trình tổ chức thi hành án, ông Vân đã có những sai phạm. Cụ thể, ngày 29.12.2008, ông Vân kê biên trạm xăng Hồng Hưng của bà Hồng nhưng không cho 2 bên đương sự thỏa thuận về giá mà tiến hành định giá ngay tài sản trên.

Khi ban hành quyết định thành lập hội đồng định giá cũng không có thành phần bắt buộc là Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất TP.Đà Lạt (Trung tâm GIS). Sau đó, ông Vân tự sửa chữa văn bản đưa thêm Trung tâm GIS vào thay thế trong hồ sơ thi hành án.

Ngày 2.1.2009, Hội đồng định giá tài sản do ông Vân làm chủ tịch đã áp dụng giá đất năm 2008, nên tổng giá trị đất và tài sản trên đất của bà Hồng được định giá gần 37,2 tỉ đồng. Ngày 20.2.2009, Công ty TNHH Phương Trang Đà Lạt đã đấu giá trúng và mua được đất và tài sản tại số nhà 357 Phan Đình Phùng (Đà Lạt); cuối tháng 3.2009, đã nộp đủ số tiền cho Chi cục THADS Đà Lạt để sang tên giấy chứng nhận quyền sử sụng đất. Nhưng do bà Hồng khiếu nại ông Vân định giá đất quá thấp gây thiệt hại cho bà, nên đến nay Công ty TNHH Phương Trang Đà Lạt vẫn chưa nhận được tài sản mua trúng đấu giá.

Tháng 4.2011, Hội đồng định giá tài sản của tỉnh Lâm Đồng áp giá đất năm 2009, xác định toàn bộ khối tài sản trên của bà Hồng là hơn 54 tỉ đồng. Ngày 20.9.2011, Cục 6 chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra đến Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra hình sự về trật tự xã hội (Vụ 1A) đề nghị truy tố bị can Nguyễn Long Vân về tội “ra quyết định trái pháp luật”, nhưng Vụ 1A trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung. Ngày 13.1.2012, Cục 6 có bản kết luận bổ sung số 05/VKSTC-C6(P4) khẳng định Hội đồng định giá tài sản do ông Vân  làm chủ tịch đã định giá đất và tài sản của bà Hồng thấp hơn 16 tỉ đồng so với Hội đồng định giá tài sản của tỉnh Lâm Đồng, đồng thời tiếp tục đề nghị Vụ 1A truy tố ông Vân.

Đề nghị trên không được Vụ 1A chấp nhận. Đến ngày 11.6.2012, Cục 6 mới ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và tạm đình chỉ điều tra bị can đối với ông Vân. Lý do, ngày 30.5.2012 Cục 6 trưng cầu Bộ Tài chính giám định giá trị đất và tài sản trên đất tại số nhà 357 Phan Đình Phùng, nay thời hạn đã hết nhưng chưa có kết quả giám định.

Tiếp xúc với Thanh Niên, ông Nguyễn Long Vân cho rằng: “Tháng 1.2012, Cục 6 đã bổ sung kết luận điều tra gửi cho Vụ 1A, vậy tại sao ngày 30.5.2012 lại còn trưng cầu giám định giá trị đất và tài sản của bà Hồng?”. Hơn 2 năm qua vụ án cứ “lơ lửng”, ông Vân bị Cục THADS tỉnh Lâm Đồng đình chỉ chức vụ chấp hành viên, Phó trưởng THADS Đà Lạt, nhưng không bị đình chỉ công tác. Đến nay sau 4 tháng có quyết định tạm đình chỉ vụ án và điều tra bị can, nhưng ông Vân vẫn chưa được phục hồi chức vụ và bồi thường thiệt hại trong thời gian 16 tháng bị khởi tố.

3. Báo Hà Nội mới Online có bài ”Bó tay” trong thi hành án lừa đảo?. Bài báo phản ánh: Luật Thi hành án dân sự (THADS) có hiệu lực từ ngày 1-7-2009, được kỳ vọng sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động THADS. Tuy nhiên, sau 3 năm triển khai, đã xuất hiện những tình huống chưa được dự liệu, làm hạn chế việc giải quyết án tồn đọng.

Gần đây nhất, trong các tháng 6, 7, 8, TAND TP Hà Nội và các đơn vị trực thuộc đã đưa ra xét xử khá nhiều vụ án liên quan đến loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó có bị cáo chiếm đoạt số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng của những người nhẹ dạ cả tin dưới các hình thức khác nhau. Nhiều nhất là vay tiền để kinh doanh với lãi suất cao và hứa đưa đi xuất khẩu lao động tại Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản với kinh phí 3.000-5.000 USD/trường hợp… Đến khi nhận được tiền của nạn nhân, kẻ lừa đảo lập tức cao chạy xa bay. Thế nhưng từ khi những kẻ lừa đảo bị bắt cho tới lúc ra tòa, các nạn nhân chỉ biết "kêu trời" vì những kẻ đưa họ vào tròng đều biết thừa mức án dành cho chúng đều rất cao (từ 15 năm đến chung thân), nên 90% số tài sản kiếm được chúng đều đã "chuyển giao" bằng mọi cách với phương châm "hy sinh đời bố, củng cố đời con".

Do đó, dù bản án tòa tuyên là phải trả tiền đủ cả lãi và gốc cho nạn nhân, nhưng THA thế nào là câu hỏi còn bỏ ngỏ. Ngay cả khi đối tượng lừa đảo ra tù, lại làm ăn phát đạt, cứ có khoản nào là gửi ngân hàng thì việc phát hiện, khống chế cũng không dễ. Bởi lẽ dù luật đã quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong công tác phối hợp THADS, tuy nhiên, không có chế tài kiểm kê kèm theo khiến hiệu quả không cao. Hầu hết các nhà băng đều có ý thức bảo vệ quyền lợi của khách hàng, duy trì nguồn tiền gửi ổn định nên việc tự nguyện phối hợp cung cấp số dư tài khoản cũng như thực hiện các quyết định của chấp hành viên cơ quan THADS rất hạn chế. Do đó, không ít trường hợp, dù biết rõ người phải THA có tiền nhưng chấp hành viên cũng không thể làm gì được.

Đã đến lúc phải xây dựng quy chế phối hợp cụ thể giữa cơ quan THADS với các tổ chức tín dụng theo hướng phải thực hiện đầy đủ yêu cầu của chấp hành viên. Bởi xét cho cùng, trách nhiệm chính của chấp hành viên và cơ quan THADS là buộc người phải THA thực hiện nghĩa vụ của mình. Với những người đang ở tù hoặc vừa được tái hòa nhập cộng đồng, có thu nhập thấp hay cao cũng cần nghiên cứu việc quản lý lương trong quá trình lao động, sản xuất tại trại giam và địa phương theo hướng phải trích phần lớn để THA.

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Tòa bác, công chứng viên hoang mang. Bài báo phản ánh: Cách nào để các văn bản công chứng phải là bằng chứng được các cơ quan khác chấp nhận là một trong nhiều nội dung mà các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn TP.HCM bàn thảo ngày hôm nay (6-10). Thực tế, sau năm năm luật công chứng có hiệu lực đã phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau về bảo lãnh, thế chấp… giữa công chứng viên và các tòa án, gây nhiều hệ lụy cho các bên đương sự.

Việc các tòa nhận định, áp dụng pháp luật khác nhau về bảo lãnh, thế chấp làm các công chứng viên hoang mang. Bởi thực tế loại hợp đồng này nếu có ghi “bảo lãnh” thì một số văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất không cho đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong khi nếu không ghi “bảo lãnh” thì hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu, biến khoản vay có bảo đảm đã công chứng thành khoản vay không có bảo đảm, công chứng viên có khả năng bị kiện.

Tháng 5-2011, Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư Xây dựng và Du lịch BS ký hợp đồng cho Công ty TNHH Mỹ phẩm thảo dược BL vay hơn 4,5 tỉ đồng trong một tháng với lãi suất 1,75%/tháng. Do Công ty BL không trả nợ, tháng 11-2011, Tập đoàn BS kiện Công ty BL ra TAND quận Thanh Xuân (Hà Nội) đòi nợ. Xét xử sơ thẩm hồi đầu năm nay, tòa đã tuyên chấp nhận yêu cầu của Tập đoàn BS, buộc Công ty BL phải trả tổng cộng 5,5 tỉ đồng cả vốn lẫn lãi.

Nhưng mới đây, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM đã bác các kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm vụ Công ty Cổ phần Vốn T. tranh chấp hợp đồng hợp tác với hai công ty 100% vốn nước ngoài. HĐXX nhận định thực chất hợp đồng giữa đôi bên là hợp đồng cho vay lấy lãi chứ không phải hợp tác đầu tư. Việc doanh nghiệp cho vay lấy lãi là kinh doanh tiền tệ, trong khi theo quy định, chỉ có ngân hàng, tổ chức tín dụng mới có chức năng này.

Về chuyện doanh nghiệp vay tiền của nhau có tính lãi, nhiều chuyên gia cho rằng cần xem lại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (chỉ có ngân hàng, tổ chức tín dụng mới được cho vay lấy lãi). Một thẩm phán TAND tối cao cho rằng tòa xét xử tùy thuộc vào nội dung ký kết hợp đồng vay giữa các doanh nghiệp. Nếu việc cho vay đó là lấy lãi và để kinh doanh thì vô hiệu nhưng nếu việc cho vay đó là nhằm hỗ trợ trong một thương vụ thì nên chấp nhận…

Hiện các công chứng viên cũng rối khi công chứng hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành từ tương lai. Đầu tháng 9-2012, Bộ Tư pháp có công văn trao đổi gửi UBND TP Hà Nội nêu: Tại thời điểm hiện nay, công chứng viên cần từ chối công chứng hợp đồng thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai. Trong khi giao dịch dạng này là nhu cầu phổ biến và từ trước đến nay các tổ chức hành nghề công chứng đều chứng nhận…

5. Báo điện tử Đài tiếng nói nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có bài Đưa Luật Công chứng vào cuộc sống: hướng đi dung. Bài báo phản ánh: Hội nghị tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2007-2012 đã diễn ra vào sáng nay 6/10 tại Sở Tư pháp TP.HCM.

Sau 5 năm thực hiện Luật Công chứng, TP.HCM có 29 tổ chức hành nghề công chứng với 124 Công chứng viên, trong đó có 7 phòng công chứng hoạt động theo loại hình công ty hợp danh và 22 văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đây là một bước cụ thể đối với chủ trương xã hội hóa cho hoạt động bổ trợ tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Thể hiện hướng đi đúng đắn và phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Quan trọng nhất của Luật Công chứng là đã thay đổi cơ chế thực hiện công chứng, tăng tính phục vụ trong ứng xử và hoạt động hành nghề của Công chứng viên đối với người dân. Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng và nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước. Từ khi triển khai Luật Công chứng, cơ quan quản lý nhà nước đã thanh tra 10 tổ chức hành nghề công chứng, xử phạt 25 trường hợp với tổng số tiền phạt gần 111 triệu đồng.

6. Báo Dân trí có bài Cán bộ tư pháp uống thuốc sâu tự tử. Bài báo phản ánh: Sáng sớm trên đường đi tập thể dục, người dân địa phương bất ngờ phát hiện anh B. nằm gục trước một căn nhà trong tình trạng bất động, miệng sùi bọt.

Ngày 6/10, sau nhiều ngày cấp cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy (TPHCM), anh Châu Thanh B. (30 tuổi, cán bộ tư pháp phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, TPHCM) vẫn chưa qua cơn nguy kịch sau gần 1 tuần được cấp cứu.

Trước đó sáng sớm ngày 30/9, người dân địa phương đi tập thể dục bất ngờ phát hiện anh B. nằm bất động trước một căn nhà trên đường Tam Bình (phường Tam Phú, quận Thủ Đức) trong tình trạng mắt trợn ngược, miệng sùi nước bọt và nồng nặc mùi thuốc trừ sâu.

Ngay sau đó lực lượng Công an phường nhanh chóng đến hiện trường kiểm tra thấy nạn nhân vẫn còn sống nên đưa vào Bệnh viện quận Thủ Đức cấp cứu. Tại hiện trường, công an phát hiện 1 chai thuốc trừ sâu đã cạn.

Sau khi tiếp nhận và sơ cứu, do số lượng thuốc quá nhiều và được phát hiện quá trễ, nạn nhân đã được chuyển khẩn cấp về Bệnh viện Chợ Rẫy để tiếp tục cứu chữa.

Hiện gia đình và người thân vẫn chưa rõ nguyên nhân dẫn đến việc vị cán bộ này tự tử.

III- THÔNG TIN KHÁC

Báo Công lý có bài Vụ đấu giá đất không “sạch” ở huyện Nam Trực (Nam Định): Chủ tịch UBND huyện bị kiện ra Tòa. Bài báo phản ánh: Trúng đấu giá đất, nộp tiền đầy đủ theo quy định nhưng mãi không được giao đất. Nhiều lần yêu cầu nhưng không được giải quyết, cực chẳng đã, một người dân phải khởi kiện Chủ tịch UBND huyện ra Tòa…

Nguyên nhân dẫn đến những lùng nhùng của vụ việc này bắt đầu từ việc cơ quan có thẩm quyền đem ra đấu giá đất không “sạch” .

Theo quy hoạch đã được UBND tỉnh Nam Định phê duyệt, cuối năm 2008, UBND huyện Nam Trực đồng ý cho đấu giá quyền sử dụng đất ở xã Nam Dương. Trong tổng diện tích đem ra đấu giá có một phần diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình ông Vũ Ngọc Quang được giao (thường gọi là đất 115). Căn cứ đề nghị thu hồi đất phục vụ bán đấu giá, phương án bồi thường, hỗ trợ… của UBND xã Nam Dương, ngày 11-12-2008, UBND huyện Nam Trực ban hành quyết định thu hồi 567m2 đất của hộ ông Vũ Ngọc Quang, ở thôn Phượng, xã Nam Dương. Hội đồng đấu giá đất do UBND huyện này thành lập và đề xuất mức giá tối thiểu là 91,8 triệu đồng/1 lô đất. Ông Vũ Văn Anh ở trong thôn tham gia đấu giá theo quy định và đã trúng giá lô số 2 với số tiền 92,1 triệu đồng. Ông Anh đã nộp đủ số tiền này vào kho bạc huyện trong thời gian quy định của Hội đồng đấu giá.

Sau khi hoàn tất hồ sơ, Hội đồng đấu giá của huyện trình lên và đến ngày 27-2-2009, UBND tỉnh Nam Định đã ban hành quyết định phê duyệt  kết quả đấu giá.

Về phần mình, sau khi đã thực hiện xong đầy đủ nghĩa vụ của người tham gia đấu giá nhưng chờ mãi không thấy được giao đất, dù đã kiến nghị nhiều nhưng ông Vũ Văn Anh vẫn không được giải quyết. Cực chẳng đã, ông Vũ Văn Anh làm đơn khởi kiện Chủ tịch UBND huyện ra Tòa với lý do không thực hiện hành vi hành chính là ban hành quyết định giao đất cho ông.

Nguyên nhân cơ bản của những lùng nhùng kéo dài hơn 3 năm nay dẫn đến vụ án hành chính (chưa xét xử) này là do đất đưa ra đấu giá không “sạch”. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất ban hành kèm theo Quyết định số 216/TTg ngày 31-8-2005 của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện các thửa đất được tổ chức đấu giá là phải “Đã được bồi thường giải phóng mặt bằng”. Nhưng thực tế trong vụ việc này Hội đồng đấu giá đất của huyện Nam Trực tổ chức đấu giá đất trước khi  thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng.  Theo ông Vũ Văn Báu, Chủ tịch UBND xã Nam Dương thì vì huyện không có nguồn chi trả bồi thường cho người có đất bị thu hồi mà phải đợi đến lúc người trúng đấu giá nộp tiền thì mới có để trả khoản này. Thực tế, vì chưa bồi thường nên hộ ông Quang vẫn quản lý diện tích đất bị thu hồi, chưa giao cho chính quyền quản lý nên việc giải phóng mặt bằng chưa xong, chưa tạo lập được quỹ đất “sạch” để đấu giá. Cho nên sau khi có kết quả đấu giá thì phát sinh tranh chấp mà người có đất bị thu hồi là ông Quang không chấp nhận giao đất cho hộ ông Vũ Văn Anh. Ông Báu cũng bày tỏ một thực tế ở địa phương là rất khó để có được đất “sạch” trước khi đem đấu giá vì… khó khăn về ngân sách.

Được biết, ngoài khoản nộp cho nhà nước theo kết quả đấu giá, “theo thỏa thuận” thì những người trúng đấu giá còn phải nộp khoản tiền đáng kể (khoảng 82,8 triệu đồng) cho người có đất bị thu hồi là ông Quang. Đã có 4/5 người trúng giá chấp nhận việc thỏa thuận này và đã được giao đất. Riêng ông Vũ Văn Anh không thỏa thuận và chấp nhận nộp thêm nên không được giao đất.

Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Văn Hạnh, Chủ tịch UBND huyện Nam Trực cho rằng vì ông Vũ Văn Anh không thực hiện thỏa thuận dân sự với ông Quang nên không thu hồi đất của ông Quang để giao cho ông Anh được. Theo báo cáo của Phòng TN&MT đồng thời cũng là ý kiến của ông Chủ tịch UBND xã Nam Dương thì trong buổi họp do cơ sở thôn Phượng tổ chức, ông Quang và những tham gia đấu giá đã thỏa thuận rằng mỗi người trúng giá sẽ nộp khoản tiền cho ông Quang 600.000 đồng/m2 và tiền nhà nước bồi thường là 35.000 đồng/m2 thì người trúng giá sẽ hưởng. Tuy nhiên, ông Anh khẳng định ông không tham gia thỏa thuận đó vì cho rằng đó là thỏa thuận trái pháp luật.

Luật sư Bùi Đình Ứng (Đoàn LS Hà Nội) thì cho rằng trách nhiệm về bồi thường, GPMB là thuộc cơ quan nhà nước chứ không phải là của người tham gia đấu giá. Quan trọng hơn, thỏa thuận đó không có tính chất bắt buộc trong quy trình GPMB đấu giá quyền sử dụng đất. Hơn nữa, ông Vũ Văn Anh không tham gia thỏa thuận thì không có lý do gì để buộc ông phải thực hiện, càng không phải là lý do để từ chối giao đất cho ông Anh.

Liên quan đến vụ việc này đã có điều lạ ở chỗ người trúng đấu giá chỉ được giao 54m2. Nhưng theo “thỏa thuận dân sự” thì họ lại phải chịu trả cho ông Quang cả tiền của diện tích 83m2 (gần 50 triệu đồng) là đất hành lang giao thông. Việc này ai cũng biết nhưng lại im lặng vì cho rằng đó là “thỏa thuận dân sự”.

Được biết, trong quá trình giải quyết, để giữ tình làng nghĩa xóm, ông Vũ Văn Anh đã chấp nhận chi trả khoản tiền này nhưng ông Quang lại không chấp nhận mà chính quyền địa phương thì “bó tay”. Ông Hạnh thì khẳng định với chúng tôi rằng không có việc chính quyền cưỡng chế buộc ông Quang phải trả đất. Vụ việc này sẽ được phán quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật.



File đính kèm