Điểm tin báo chí sáng ngày 05 tháng 10 năm 2012

05/10/2012
Trong buổi sáng ngày 05/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Trang tin điện tử Quốc hội đưa tin Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét các báo cáo của Chính phủ. Theo Văn phòng Quốc hội, phiên họp thứ 12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ khai mạc chiều 5/10 và được chia thành 2 đợt: từ 5-9/10 và từ 16-18/10. Đây là phiên họp cuối của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII.   

Dự kiến, tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về tờ trình Quốc hội về Nghị quyết về quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc chuẩn bị trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi).

Ba nội dung quan trọng cũng sẽ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trong phiên họp gồm: Các báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2013; Báo cáo công tác năm 2012 của Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án, về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2012; Báo cáo của Chính phủ về kết quả rà soát mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian thực hiện và nguồn lực cụ thể của các dự án thành phần thuộc từng Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015 và phương án phân bổ Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2013-2015.

Về công tác xây dựng luật, pháp lệnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về các dự án: Luật việc làm, Luật đầu tư công, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; một số vấn đề quan trọng, ý kiến còn khác nhau của các dự án: Luật Thủ đô, Luật hợp tác xã (sửa đổi) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực.

Bên cạnh đó , Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về việc đề nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và khóa XIII của Quốc hội; việc ban hành Nghị định về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài./.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Tự khép mình vào kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Bài báo đưa tin: Sáng qua (4/10), sau Hội nghị kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân các thành viên Ban Cán sự Bộ Tư pháp, Hội nghị kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân các Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư pháp theo Nghị quyết T.Ư 4 khóa XI đã khai mạc, Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Đinh Trung Tụng chủ trì Hội nghị. Cùng tham dự có Tổ Công tác TƯ do Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy khối các cơ quan TƯ Hà Anh Dân làm Tổ trưởng và các thành viên Ban Thường vụ, đại diện Văn phòng Đảng ủy Bộ Tư pháp.

Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Đinh Trung Tụng nhấn mạnh, với tinh thần “tổ chức kiểm điểm chu đáo, chặt chẽ, khoa học, nghiêm túc, thận trọng, đảm bảo kết quả thực chất, tránh nể nang hay lợi dung kiểm điểm để hạ uy tín đồng chí với những động cơ không trong sáng”, Hội nghị sẽ làm rõ những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua thuộc thẩm quyền và trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Đảng ủy, nhất là những vấn đề trọng tâm, cấp bách mà Nghị quyết TƯ 4 đã nêu.

Qua kiểm điểm nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm, hạn chế trong thời gian tới để nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tập thể Ban Thường vụ Đảng ủy, vai trò, trách nhiệm của từng cá nhân Ủy viên Ban Thường vụ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ, thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành.

Hội nghị dự kiến kéo dài đến hôm nay (5/10).

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chưa xác định rõ phần sở hữu đã vội thi hành án. Bài báo phản ánh: Cục Điều tra VKSND Tối cao vừa nhận được đơn của ông Nguyễn Văn Phượng (ngụ huyện Gò Công Tây, Tiền Giang) tố cáo hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ của chấp hành viên trong vụ thi hành án (THA) có liên quan đến ông.

Theo đơn tố cáo, năm 1996, ông Phượng được cấp giấy đỏ hơn 3.000 m2 đất vườn và đất lúa ở Gò Công Tây đứng tên ông. Năm 2008, vợ ông bị tòa tuyên phải trả nợ cho 19 người tổng cộng hơn 500 triệu đồng. Cuối năm 2009, Chi cục THA dân sự huyện Gò Công Tây ra quyết định buộc vợ ông phải THA. Sau đó, chấp hành viên kê biên cả nhà, đất để THA, chỉ chừa lại 360 m2 cho gia đình ông dựng nhà tạm ở.

Theo khoản 1 Điều 74 Luật THA dân sự, đối với trường hợp của ông Phượng thì chấp hành viên phải xác định phần sở hữu của vợ (chồng) theo Luật Hôn nhân và Gia đình và thông báo cho họ biết. Nếu vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu tòa phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày xác định phần sở hữu. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì chấp hành viên mới xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ (chồng) của người phải THA giá trị tài sản thuộc sở hữu của họ.

Tuy nhiên, chấp hành viên đã không tiến hành các thủ tục này. Thậm chí ông Phượng trình bày trước đó ông đã khởi kiện yêu cầu TAND huyện phân chia tài sản, tòa chưa giải quyết thì chấp hành viên đã làm trước. Chưa hết, trong quá trình thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, chấp hành viên cũng không thông báo cho ông Phượng để có ý kiến và có quyền ưu tiên mua lại tài sản theo quy định tại Điều 12 Nghị định 164/2004 của Chính phủ và khoản 3 Điều 74 Luật THA dân sự.

Tháng 5-2012, Chi cục THA huyện đã mời vợ chồng ông Phượng lên để phân chia số tiền bán đấu giá được (người mua trúng tài sản là một trong 19 chủ nợ của vợ ông Phượng với giá là 461 triệu đồng). Theo đó, vợ ông Phượng được chia 298 triệu đồng để THA trả nợ, phần của ông Phượng được 163 triệu đồng. Cho rằng việc phân chia này là không có căn cứ và trái luật, ông Phượng không nhận và hiện Chi cục THA huyện vẫn giữ số tiền này.

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nên đưa Hợp đồng hôn nhân vào Luật?. Bài báo phản ánh: Hiện Luật Hôn nhân & Gia đình chưa có quy định về hợp đồng hôn nhân, tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng nên bổ sung quy định này để phân định tài sản chung, riêng, trước, trong và sau hôn nhân hoặc khi vợ chồng muốn chia tài sản khi ly hôn…

Hiện nay, Luật Hôn nhân & Gia đình cũng như các văn bản có liên quan chưa có quy định nào cho phép nam, nữ lập và ký kết hợp đồng hôn nhân. Trong trường hợp có tranh chấp, những hợp đồng này không được pháp luật công nhận và cũng không bị điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân & Gia đình. Nhưng không phải vì chưa có quy định mà vấn đề tài sản của vợ, chồng trước hôn nhân không được pháp luật bảo hộ.

Bởi lẽ, theo quy định của Luật Hôn nhân & Gia đình: “Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân và đồ dùng, tư trang cá nhân”. Cũng theo điều luật này thì vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Vì thế, không nhất thiết phải quy định về hợp đồng hôn nhân trong Luật Hôn nhân & Gia đình.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, nên quy định về vấn đề này vì Luật hiện hành chỉ ghi nhận tài sản vợ chồng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung nên chưa bao quát hết những phức tạp phát sinh trong đời sống.

Trên thực tế việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn là vấn đề hết sức phức tạp, nhiều trường hợp bế tắc, nhất là khi tài sản đó không đứng tên chồng mà chuyển hóa thành tên của hai vợ chồng hoặc của riêng người vợ.

 

Nếu có hợp đồng hôn nhân thì mọi việc sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều, khi có tranh chấp Tòa án cũng đỡ mất thời gian điều tra, xác minh, vợ/chồng cũng không mất công tìm chứng minh tài sản này, tài sản kia là của mình. Ý kiến này cho rằng, hợp đồng hôn nhân thực tế chỉ “luật hóa” những gì đã diễn ra trong thực tiễn đời sống. Nhưng nếu bổ sung, cần phải có quy định cụ thể, đặc biệt là về hình thức của hợp đồng như có cần chứng thực hay không, do cơ quan nào chứng thực…

Còn nhiều tranh cãi tuy nhiên việc có bổ sung quy định này hay không còn là vấn đề phải xem xét, cân nhắc cẩn trọng, nhất là đối với một lĩnh vực được coi là “nhạy cảm” như hôn nhân gia đình. Ngoài vấn đề pháp lý còn là truyền thống đạo đức, văn hóa, phong tục tập quán... Một quy định chỉ thực sự phát huy trong đời sống nếu nó “cân bằng” được cả hai vấn đề này.

4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Bổ nhiệm công chứng viên “dễ dãi“, hậu quả khó lường. Bài báo phản ánh: Có bằng Đại học Luật, có thời gian công tác pháp luật 5 năm trở lên, đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng..., những tiêu chuẩn để bổ nhiệm công chứng viên (CCV) theo Luật Công chứng hiện hành xem ra rất “chuẩn”. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, Luật quy định miễn đào tạo nghề cho quá nhiều đối tượng khiến cho chất lượng CCV không đồng đều, tiềm ẩn những nguy cơ khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch.

Còn nhớ một thời, sau khi Luật Công chứng có hiệu lực, Hà Nội “bùng phát” các văn phòng công chứng, theo đó số lượng CCV cũng tăng “đột biến”, nhiều người đang là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra, luật sư ... cũng “bỏ nghề” sang đầu quân cho công chứng. Điều đó cho thấy, mô hình xã hội hóa mới thu hút nhiều nhân lực, tuy nhiên, mặt trái là sự, xem ra được cấp thẻ hành nghề có vẻ rất ... đơn giản.

Đơn giản không phải vì tiêu chuẩn thấp mà vì việc miễn đào tạo nghề. Theo quy định của Luật Công chứng những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề từ ba năm trở lên; giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật thì được miễn đào tạo nghề công chứng (và những người này cũng được miễn luôn tập sự hành nghề).

Nhiều ý kiến cho rằng đúng là những đối tượng được miễn nói trên là những người có học hàm học vị, có trình độ pháp luật cao nhưng không phải vì thế mà “bổ nhiệm thẳng” cho họ bởi CCV là nghề rất đặc thù, tính tự chịu trách nhiệm cao. Không hẳn cứ làm điều tra, cứ có bằng cấp luật cao... là có thể làm CCV không cần qua một ngày đào tạo.

Thực tế cũng chỉ ra rằng, sau khi có Luật Công chứng, chất lượng một đội ngũ CCV đang có “vấn đề”. Những lùm xùm xung quanh vụ việc xảy ra tại một số văn phòng công chứng (mà điển hình là vụ Việt Tín, Hà Nội) đã nói lên điều đó. CCV không qua đào tạo dẫn đến tình trạng “chứng lấy được”, đã có vụ công chứng “nhầm” sổ đỏ, giấy tờ giả, công chứng hợp đồng bán nhà cho cả người không phải là chủ sở hữu, công chứng vào tài sản đang tranh chấp... Ngoài những vụ mà cơ quan pháp luật làm rõ lỗi do cố ý, còn lại nhiều CCV làm ẩu, làm sai là do năng lực có hạn.

Thuyết minh sửa đổi Luật Công chứng, Bộ Tư pháp thừa nhận: Do đội ngũ công chứng viên còn mỏng trước yêu cầu xã hội hóa công chứng, nên Luật Công chứng năm 2006 quy định đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn thời gian tập sự hành nghề công chứng có phần dễ dãi, do đó, chất lượng một bộ phận công chứng viên tại các văn phòng công chứng còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là những người không qua đào tạo, tập sự nghề công chứng dẫn đến sự non kém hoặc tắc trách về chuyên môn nghiệp vụ.

Khắc phục sự “dễ dãi” trong quy định của pháp luật, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc phải sửa Luật Công chứng, trong đó cần thiết phải thu hẹp đối tượng được miễn đào tạo cũng như tập sự hành nghề công chứng. Đối với người tập sự hành nghề, cần kéo dài hơn về thời gian cũng như quy định rõ về trình tự, nội dung tập sự để tránh việc “đánh trống ghi tên”. Luật Công chứng sửa đổi có thể tính đến cả việc quy định về sức khỏe đủ để hành nghề hoặc giới hạn độ tuổi vì hiện nay nhiều công chứng viên quá già, không đủ sức khỏe hoặc được cấp thẻ hành nghề không làm việc nhưng cũng không bị thu hồi…

Trong khi chở sửa Luật Công chứng, vấn đề nói trên cũng được đặt ra khi Bộ Tư pháp xây dựng Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 02 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng. Nhiều ý kiến đề nghị cần quy định việc bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc đối với người được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự hành nghề công chứng.

Theo đó, người được miễn đào tạo nghề công chứng, miễn tập sự hành nghề công chứng sau khi được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm CCV phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng trước khi thành lập văn phòng công chứng hoặc trước khi ký hợp đồng làm việc theo chế độ hợp đồng với một văn phòng công chứng, nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ CCV. Tuy nhiên, ý kiến khác băn khoăn việc này có phù hợp với Luật Công chứng không ...?

Công chứng suy cho cùng cũng là nghề nhiều rủi ro, CCV phải chịu trách nhiệm suốt đời về hành vi của mình, vì thế để an toàn cho chính bản thân và tổ chức hành nghề, không còn cách nào khác hơn là CCV phải tự  nâng cao trình độ và cẩn trọng hơn với từng hợp đồng mà mình đặt bút ký.

            5. Trang Info.net có bài Đà Nẵng: Trưởng Văn phòng công chứng nợ gần chục tỉ xin từ chức. Bài báo phản ánh: Ngày 3/10, Sở Tư pháp Đà Nẵng cho biết vừa tiếp nhận đơn của bà Nguyễn Thị Thu Hà (sinh năm 1976, trú tổ 34, phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) - Trưởng Văn phòng Công chứng Trung Việt xin miễn nhiệm chức công chứng viên vì lý do sức khoẻ.

Trước đó, chiều 28/9, hàng chục người kéo đến Văn phòng công chứng Trung Việt ở số 626 Ngô Quyền tìm bà Nguyễn Thị Thu Hà để đòi nợ. Trong số này có người cho hay đã cho bà Hà vay mượn với số tiền lên đến 4 tỉ đồng.

 

Tuy nhiên từ ngày 20/9, bà Nguyễn Thị Thu Hà đã đóng cửa Văn phòng công chứng này và cùng chồng là Nguyễn Văn Minh Trung (sinh năm 1976, trú cùng địa chỉ, Giám đốc đại diện của Cty TNHH Trung Sinh) bỏ đi khỏi địa phương nhiều ngày liền mà không rõ lý do nên các nạn nhân đã có đơn tố cáo gửi cơ quan điều tra về việc nợ tiền.

Đến ngày 1/10, hai vợ chồng bà Hà "bất ngờ" đến trình diện tại Công an quận Sơn Trà, khai nhận đã vay mượn của nhiều người với tổng số tiền hơn 9 tỉ đồng để đầu tư làm ăn nhưng thua lỗ, đến nay không có khả năng thanh toán...

Thượng tá Lâm Cao Luynh, Trưởng Công an quận Sơn Trà cho biết vụ việc đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra (Công an quận Sơn Trà) thụ lý điều tra theo luật định. Sở Tư pháp Đà Nẵng cũng cho biết, đơn xin từ chức của bà Nguyễn Thị Thu Hà đã được Sở này tiếp nhận theo thẩm quyền để chuyển cho Bộ Tư pháp ra quyết định.

III- THÔNG TIN KHÁC

Báo Thanh niên Online có bài Sự lúng túng của quản lý. Bài báo phản ánh: Nhu cầu điều tiết dân số để tránh quá tải do mật độ dân số đô thị cao luôn là vấn đề của chính quyền các đô thị. Nhưng thực tế chứng minh việc đưa ra các hàng rào để hạn chế quyền tự do cư trú của người dân không bao giờ là giải pháp triệt để. Chưa kể nó vi hiến và trái với bộ luật gốc về quyền dân sự.

Năm 2006, thông qua luật Cư trú, QH khi đó đã tạo ra một vài thay đổi, cởi bỏ khá nhiều quy định nhằm hạn chế việc đăng ký thường trú tại các TP lớn, tiệm cận dần với quyền Hiến định của công dân về tự do đi lại, tự do cư trú. Nhưng vì phương thức quản trị dân cư bằng sổ hộ khẩu không thay đổi nên những quy định trong luật Cư trú nhanh chóng trở thành vấn đề của nhà quản lý. Các hình thức lách luật lập tức trở nên phổ biến, gây khó khăn cho công tác đảm bảo an ninh trật tự.

Tuy nhiên, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Cư trú đang được lấy ý kiến vẫn tiếp tục theo tư duy cũ, đưa ra thêm điều kiện siết nhập cư nói là nhằm bịt các kẽ hở. Chưa nói đây là một bước thụt lùi thì việc quy định diện tích ở 5 m2/người hoặc phải tạm trú 3 năm (thay vì 1 năm) khi đăng ký thường trú sẽ chỉ là hình thức, hoàn toàn không có tác dụng ngăn cản được nhập cư tự do mà còn làm tình hình thêm phức tạp; người dân phải lo “lách”, tạo điều kiện cho tiêu cực phí phát sinh, trong khi không giúp quản lý tốt hơn. Dù không đăng ký thường trú, không có hộ khẩu thì thực tế, khi có nhu cầu người dân vẫn di chuyển đến các TP, vẫn sinh sống tại đó.

Gốc gác của những lúng túng trong quản lý, “cởi” rồi lại “buộc” ấy là bởi vì, chúng ta đang duy trì phương thức quản lý dân cư quá lạc hậu. Hộ khẩu cùng với tem phiếu là con song sinh của thời kỳ bao cấp. Cùng với đó là ngăn sông cấm chợ, là những hàng người xếp rồng rắn chờ mua gạo, thịt. Tem phiếu đã hoàn thành sứ mệnh bao cấp và bị loại trừ, nhưng hộ khẩu thì vẫn còn.

 Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc từng nói: chúng ta đang lấy hộ khẩu để cản trở người dân thực hiện những quyền được Hiến pháp quy định như tự do đi lại, tự do cư trú, làm việc. Hộ khẩu đang là công cụ để chính quyền quản lý công dân, là mục tiêu hạn chế làn sóng di dân về các đô thị lớn. Nhưng thực tế cho thấy, mục tiêu này đã không thực hiện được.

Trên thế giới hiện chỉ còn 3 nước áp dụng quản lý dân cư bằng hộ khẩu là Việt Nam, Triều Tiên và Trung Quốc. Các nước đều quản lý bằng thẻ cư trú hoặc thẻ an sinh. Công dân sinh ra được cấp một mã số và nhập hộ tịch. Khi thành niên họ có quyền tách hộ tịch và chuyển đến sinh sống ở bất kỳ đâu trên đất nước bằng một thủ tục đơn giản và không gặp phải sự phân biệt đối xử nào.

Nếu chúng ta khẳng định quyền tự do cư trú, tự do đi lại của công dân thì phải thay đổi cách quản lý con người bằng hộ khẩu. Bởi lẽ, sự dịch chuyển dân cư từ nông thôn ra TP là một tất yếu khách quan theo đà phát triển của kinh tế.

Chính quyền muốn quản lý dòng dân di cư, tránh áp lực cho các đô thị phải bằng các biện pháp phát triển kinh tế vùng, tạo điều kiện an sinh đồng đều cho các vùng miền hoặc bằng các biện pháp thuế dân cư, trao quyền lựa chọn nơi sinh sống cho người dân. Như vậy vừa hiệu quả, vừa đảm bảo tôn trọng quyền nhân thân.

 

 



File đính kèm