I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
Báo Nhân dân điện tử đưa tin Nhận lời mời của Tổng thống nước CH Ca-dắc-xtan, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dẫn đầu Ðoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm cấp Nhà nước CH Ca-dắc-xtan từ ngày 10 đến 11-9.
Sáng 10-9, tại Dinh Tổng thống, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã có cuộc gặp hẹp, sau đó hội đàm với Tổng thống Ca-dắc-xtan N.Na-da-bai-ép. Tham dự hội đàm, về phía Việt Nam có Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Ðào Việt Trung, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Ðức Phát, Bộ trưởng Giao thông vận tải Ðinh La Thăng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, Ðại sứ Việt Nam tại CH Ca-dắc-xtan Nguyễn Văn Hòa và lãnh đạo một số bộ, ngành và địa phương.
Về phía Ca-dắc-xtan có Bộ trưởng Ngoại giao E.Ca-dư-kha-nốp, Bộ trưởng Giao thông và Thông tin A.Du-ma-ga-li-ép, Bộ trưởng Công nghiệp A.I-xe-ke-ép, Bộ trưởng Văn hóa Ð.Mưn-bai, Phó Chánh Văn phòng Tổng thống B.Sun-ta-nốp và nhiều quan chức cấp cao khác.
Sau hội đàm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Nu-xun-tan Na-da-bai-ép đã chứng kiến lễ ký Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CH Ca-dắc-xtan trong lĩnh vực kiểm dịch thực vật; Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CH Ca-dắc-xtan về vận chuyển hàng không giữa và qua lãnh thổ hai nước, và một số thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực ngân hàng và hợp tác địa phương.
* Cùng ngày, hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam - Ca-dắc-xtan.
* Trong khuôn khổ chuyến thăm Ca-dắc-xtan, ngày 10-9, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã hội kiến Chủ tịch Thượng viện Ca-dắc-xtan Cai-rát Ma-mi.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Án tuyên “còn “lập lờ“ có được thi hành?. Bài báo phản ánh: Cho rằng bản án tuyên lập lờ, người phải thi hành án yêu cầu giải thích bản án, nhưng thẩm phán chủ tọa phiên tòa vẫn chưa giải thích. Vậy bản án có được thi hành?.
Năm 1976, ông Vũ Mạnh Thượng chung sống với bà Nguyễn Tường Minh và sinh được ba người con chung là Vũ Mạnh Tuân, Vũ Mạnh Tiến và Vũ Tường Vy. Còn căn nhà 150 (trệt) Trần Hưng Đạo B, Quận 5, TPHCM thuộc sở hữu của nhà nước được Sở LĐTB&XH bố trí cho gia đình ông Thượng (gồm ông Thượng và Minh và 3 người con chung của họ) ở từ năm 1978. Đến năm 1980, ông Thượng bà Minh nhập hộ khẩu thường trú tại căn nhà trên.
Năm 1995, ông Thượng chết. Như vậy cho tới khi chết thì căn nhà 150 (trệt) Trần Hưng Đạo B vẫn thuộc sở hữu nhà nước cho nên năm 1996, bà Minh ký hợp đồng thuê nhà với Đội quản lý nhà của UBND Q5.
Năm 1998, bà Minh lập thủ tục xin hóa giá căn nhà trên với số tiền thực nộp là 82.353.829 đồng (trừ số tiền được xét giảm là 81.088.592 đồng theo Quyết định số 118/TTg ngày 27/2/1996 của Thủ tướng Chính phủ và số tiền giảm 10% là 9.150.425 đồng do chọn phương thức trả hết tiền mua nhà một lần).
Năm 1999, bà Minh được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đối với căn nhà nêu trên. Sau đó bà Minh bán một phần diện tích căn nhà để trả tiền chữa bệnh cho ông Thượng khi còn sống và chi phí mai táng.
Gần 10 năm sau, cho rằng số tiền được xét giảm 81.088.592 đồng là “di sản của ông Thượng để lại” nên vợ trước của ông Thượng là bà Nguyễn Phùng Thúy Anh và các con chung của họ là Vũ Ánh Hiền, Vũ Ánh Tuyết, Vũ Bích Vân và Vũ Mạnh Dũng đã khởi kiện bà Tường Minh đòi chia thừa kế tài sản.
Tại Bản án sơ thẩm số 51/2011/DS-ST ngày 30/11/2011 của TAND Q5 nhận định “số tiền 81.088.592 đồng chỉ xét giảm trực tiếp cho bà Nguyễn Tường Minh là người đang thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước có đơn xin mua phần diện tích đang thuê” chứ không phải là di sản do ông Thượng để lại, nên đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Thế nhưng, tại Bản án phúc thẩm số 470/2012/DS-PT ngày 7/5/2012 của TAND TPHCM do thẩm phán Phạm Thị Hằng làm chủ tọa, nhận định rằng số tiền 81.088.592 đồng được xác định là di sản của ông Thượng để lại nên chia 10 phần bằng nhau cho 2 bà vợ và các con của ông Thượng, gồm Nguyễn Phùng Thúy Anh, Vũ Ánh Tuyết, Vũ Bích Vân, Vũ Mạnh Dũng, Vũ Ánh Hiền, Nguyễn Tường Minh, Vũ mạnh Tuân, Vũ Mạnh Tiến, Vũ Tường Vy và một suất cho công sức của bà Minh.
Xác định số tiền giảm 81.088.592 đồng lúc đó bằng 46,9% trị giá căn nhà nên Tòa định giá căn nhà hiện nay rồi tuyên mỗi suất thừa kế được hưởng là 513.386.704 đồng.
Với phán quyết của cấp phúc thẩm, bà Minh coi như mất trắng căn nhà. Bản án được Chi cục Thi hành án dân sự Q5 giao cho Thừa phát lại Q5 thi hành. Ngày 31/5/2012, bà Minh có đơn gửi TAND TPHCM yêu cầu giải thích Bản án số 470/2012/DS-PT vì có nhiều đoạn ghi lập lờ không rõ nghĩa. Cụ thể phần nhận định bản án có ghi “Như vậy, có đủ cơ sở xác định số tiền 81.088.592 đồng được giảm khi mua hóa giá căn nhà 150 (trệt) Trần Hưng Đạo là do ông Vũ Mạnh Thượng là thương binh, có 26 năm công tác liên tục nên được hưởng theo chính sách chế độ người có công với cách mạng”.
Bà Minh làm đơn cho rằng “câu văn trên không có chủ ngữ”, yêu cầu giải thích cụm từ “khi mua” nghĩa là “khi bà Minh mua” hay “khi ông Thượng mua”?; Cụm từ “nên được hưởng” có nghĩa là “nên bà Minh được hưởng hay là “nên ông Thượng được hưởng”. Nếu Tòa khẳng định là ông Thượng được hưởng thì Tòa trích dẫn từ chứng từ nào trong hồ sơ?.
Thế nhưng, cho đến nay thẩm phán Phạm Thị Hằng vẫn chưa có văn bản giải thích bản án nói trên, còn căn nhà thì chuẩn bị kê biên bán đấu giá.
Cho rằng TAND TPHCM đã xét xử oan sai, bà Nguyễn Tường Minh đã làm đơn gửi TAND Tối cao đề nghị xem xét lại vụ án này theo thủ tục giám đốc thẩm.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Không thi hành án gần 11 năm, chỉ bị khiển trách. Bài báo phản ánh: Ngày 10-9, ông Trần Khánh Dân, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang, cho biết cơ quan này vừa ra quyết định kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với chấp hành viên Trần Thị Lệ Thư.
Lý do là bà Thư đã không thi hành hai bản án được lãnh đạo phân công từ gần 11 năm nay.
Như Pháp Luật TP.HCM đã thông tin, năm 2001, bà Thư được phân công thi hành hai bản án của tòa tuyên buộc hai hộ dân tháo dỡ vật kiến trúc để giao trả hai nền nhà cho ông Nguyễn Đông Xuân (ngụ phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc). Tuy nhiên, bà Thư chỉ đến nhà người phải thi hành án ghi biên bản rồi bỏ đấy. Tháng 5-2003, bà Thư ghi vào bìa hồ sơ vụ thi hành án trên chữ “Xong - 5/2003” và ký tên, chuyển lưu trữ.
Cuối năm 2011, Cơ quan điều tra VKSND Tối cao đã khởi tố bà Thư về tội không thi hành án. Sau khi có kết luận điều tra, cơ quan điều tra đã đề nghị Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự - xã hội (Vụ 1A) VKSND Tối cao truy tố bà Thư về tội này. Cơ quan điều tra cho rằng bà Thư có hành vi cố ý không thi hành án, gây thiệt hại cho gia đình ông Xuân, ảnh hưởng xấu đến uy tín và hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước ở địa phương.
Tuy nhiên, sau đó Vụ 1A VKSND Tối cao đã ra quyết định đình chỉ mọi hoạt động tố tụng và đình chỉ điều tra đối với bà Thư. Theo Vụ 1A, hành vi không thi hành án của bà Thư là tùy tiện, vi phạm pháp luật, gây thiệt hại và bức xúc cho người được thi hành án. Bà Thư đã phạm tội không thi hành án nhưng hiện nay việc thi hành hai bản án mà bà “xếp xó” đang được tiếp tục thi hành nên miễn trách nhiệm hình sự cho bà. VKSND Tối cao cũng kiến nghị cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang có biện pháp xử lý hành chính nghiêm đối với bà Thư; rút kinh nghiệm với chấp hành viên tỉnh An Giang và chỉ đạo thi hành dứt điểm hai bản án kể trên.
Điều đáng nói là trong khi bà Thư chỉ bị kỷ luật với hình thức khiển trách như đã nói thì việc thi hành hai bản án của ông Xuân hiện đang giậm chân tại chỗ. Theo ông Trần Khánh Dân, Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang đã xin ý kiến của Ban Chỉ đạo Thi hành án tỉnh và Tổng cục Thi hành án dân sự, khi nào có ý kiến của cấp trên sẽ thi hành ngay nhưng thời gian bao lâu thì… chưa thể biết.
3. Báo Tiền phong Online có bài Giám định tư pháp: Nhiều kẽ hở. Bài báo phản ánh: Kết luận giám định trong vụ án hình sự có tính chất quyết định để cơ quan tố tụng xác định có hay không hành vi phạm tội, nặng hay nhẹ. Thế nhưng, ngay cả những người hoạt động trong cơ quan điều tra cũng kêu công tác giám định tư pháp (GĐTP ) đang có những kẽ hở, dễ dẫn đến gây oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Tính đến nay, tổng số giám định viên (GĐV) được bổ nhiệm và cấp thẻ là hơn 3.600 người trên nhiều lĩnh vực khác nhau (pháp y; kỹ thuật hình sự; pháp y tâm thần; tài chính- kế toán; văn hóa, xây dựng; tài nguyên môi trường; khoa học kỹ thuật…).
Ngoài 3 tổ chức GĐTP ở T.Ư (Viện Pháp y Quốc gia, Viện giám định pháp y tâm thần T.Ư, Viện Khoa học hình sự), cả nước có 44 trung tâm pháp y cấp tỉnh, 28 trung tâm giám định pháp y tâm thần trực thuộc sở y tế các tỉnh và 63 phòng kỹ thuật hình sự thuộc công an các tỉnh, thành.
Các cơ quan tố tụng vẫn đang sử dụng Bảng tỉ lệ tổn hại sức khỏe dùng trong giám định pháp y vận dụng quy định của Thông tư liên bộ số 12/TT-LB, ngày 26-7-1995 của liên Bộ Y tế, Bộ LĐTB&XH để đánh giá tổn hại sức khỏe trong giám định pháp y.
Theo đánh giá của cơ quan chức năng, bảng tỉ lệ này đã không còn phù hợp. Chính phủ đã giao Bộ Y tế xây dựng, ban hành mới bảng tỉ lệ tổn hại sức khỏe trong năm 2010, nhưng đến nay chưa xong.
Tại cuộc họp góp ý xây dựng dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật GĐTP hôm 5-9, đại tá Nguyễn Đức Hiển, Phó Cục trưởng CSĐT tội phạm về tham nhũng (Bộ Công an) cho biết: Do chưa có quy định về thời gian ra kết luận giám định nên có vụ làm 3 năm mới xong, thậm chí có vụ kéo dài 10 năm, gây ảnh hưởng đến tiến trình giải quyết vụ án. Phía cơ quan điều tra cứ phải chờ kết luận giám định mới ra được kết luận điều tra.
Đại tá Nguyễn Đức Hiển nêu dẫn chứng vụ điều tra sai phạm ở Cty Bia Sài Gòn, vụ Cty Xăng dầu Hàng không, vụ sai phạm quản lý đất đai tại Bình Dương.
Sau khi cơ quan điều tra trưng cầu GĐTP, ngoài thời gian chờ các bộ ngành cử GĐV (có thể kéo dài hàng tháng trời), lại tiếp tục phải chờ GĐV có muốn làm hay không.
“Có nhiều trường hợp cần GĐV tài chính, ngân hàng, xây dựng, một số người còn từ chối làm hoặc nếu làm thì họ cứ ỳ ra, không ra kết luận. Pháp luật chỉ cấm không kéo dài thời gian giám định, nhưng chưa có chế tài xử lý việc này, nên cơ quan điều tra cũng bó tay”- ông Hiển nói.
Ông Nguyễn Thế Bình (Ban chỉ đạo T.Ư về phòng chống tham nhũng) cho rằng nhiều vụ án “đầu voi đuôi chuột” có nguyên nhân chính do kết quả giám định.
“Có những vụ đối tượng khai chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng, nhưng khi có kết quả giám định lại nói không thiệt hại, dẫn đến vụ án bị đình chỉ”.
Để tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, ông Bình đề nghị cần phải có cơ chế giải quyết cụ thể khi một vụ án có 2 kết luận giám định khác nhau.
Thực tế, nhiều vụ án đã có kết luận giám định trái ngược nhau về cùng một nội dung, gây lúng túng cho cơ quan tiến hành tố tụng.
“Vậy cơ quan nào đứng ra giải quyết và chịu trách nhiệm cuối cùng về 2 kết luận khác nhau? Sử dụng kết luận nào? Căn cứ nào để sử dụng kết luận đó?” – ông Bình đặt câu hỏi.
Cùng quan điểm, luật sư Nguyễn Huy Thiệp (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho rằng cần có quy định rõ nghĩa vụ của GĐV trong việc tham gia phiên tòa và tranh luận.
“Trong nhiều vụ án phức tạp, cần làm rõ bản chất vụ án, thì vai trò của GĐV tại tòa lại chỉ là văn bản im lặng đặt trên bàn chủ tọa. Khi có những khiếu nại về kết quả thì chẳng có ai đứng ra trả lời, bên công tố cũng chỉ vin vào đó để buộc tội”.
Luật sư Thiệp đề nghị, mặc dù có quy định về quyền được yêu cầu giải thích kết luận giám định của người yêu cầu giám định, nhưng phải có chế tài buộc buộc cơ quan được trưng cầu phải trả lời về kết luận giám định.
4. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Từ tháng 2 đến 4-2013: Lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992. Bài báo đưa tin: Trong 2 ngày 10 và 11-9, tại TPHCM, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Quy trình, thủ tục, cách thức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”.
Trong phần phát biểu khai mạc, TS Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp, nhấn mạnh: “Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, thể hiện tập trung nhất quyền lực của nhân dân, ý chí tối cao của nhân dân. Do vậy, hơn ai hết, nhân dân phải được tham gia vào quá trình xây dựng Hiến pháp.
Lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp là một trong những hoạt động hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, và là phương thức dân chủ nhất để nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình về các vấn đề được Hiến pháp quy định”.
Trong 2 ngày diễn ra hội thảo, các đại biểu và chuyên gia tập trung thảo luận các nội dung: Làm thế nào để lấy ý kiến nhân dân một cách hiệu quả và thực chất nhất; cần lấy ý kiến về những nội dung nào và bằng cách nào; những đối tượng, chủ thể nào cần tập trung hướng tới trong quá trình lấy ý kiến; cơ chế tiếp nhận, thu thập, tổng hợp, phân tích và đặc biệt là phản hồi ý kiến đóng góp của nhân dân như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất...
Việc lấy ý kiến nhân dân được thực hiện từ tháng 2-2013 đến tháng 4-2013.