Trong buổi sáng ngày 19/4/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Khoảng 12 giờ ngày 18-4, 4 thanh dầm dài 33 m thuộc gói thầu 3A cầu cạn Pháp Vân - Linh Đàm (đường dẫn phía Nam cầu Thanh Trì) đã đổ ụp xuống đất. Sau vài phút hoảng loạn, nhiều người dân sống gần đó nháo nhào chạy về phía công trình để cứu người gặp nạn. Vào lúc những nhịp cầu trên sụp đổ, rất may, trên công trường không có lực lượng thi công vì là ngày nghỉ. Khi người dân đến nơi, lực lượng bảo vệ tại đây đã nhận lệnh của cấp trên lập hàng rào ngăn không cho ai tiếp cận hiện trường. Khi thấy một số phóng viên chụp ảnh, một số bảo vệ đã lao vào cản trở, dùng lời lẽ dọa nạt. Có người dùng gạch đá để ném. Họ cũng nhanh chóng dùng vải bạt phủ kín những thanh dầm đã gãy. Theo quan sát của phóng viên Báo Người Lao Động, những thanh dầm bị gãy thuộc làn đường từ phía cầu Thanh Trì về Bắc Linh Đàm; trong đó có 3 thanh dầm gãy làm nhiều đoạn và 1 thanh dầm bị rạn nứt nhiều chỗ.
Cầu Thanh Trì là cây cầu lớn nhất trong những dự án xây cầu bắc qua sông Hồng. Cầu có chiều dài 12,8 km, tổng mức đầu tư khoảng 5.700 tỉ đồng, sử dụng vốn vay ODA (Nhật Bản). Cầu Thanh Trì nối vào đường Vành đai 3 qua đường Khuất Duy Tiến - Phạm Hùng - Phạm Văn Đồng - cầu Thăng Long - Quốc lộ 2, là một tuyến giao thông quan trọng của thủ đô Hà Nội.
2. Báo Thanh niên phản ánh: UBND tỉnh Tiền Giang hôm qua tổ chức họp báo giới thiệu Festival Trái cây VN lần 1-2010, khai mạc vào tối nay 19.4. Nhằm tôn vinh thương hiệu, quảng bá hình ảnh và năng lực sản phẩm trái cây VN, Festival trái cây VN gồm 3 cuộc hội thảo, 10 hội thi, 10 lễ hội và 3 kỷ lục VN sẽ được thiết lập. Ngoài ra còn có 700 gian hàng trưng bày, giới thiệu, kinh doanh các loại đặc sản trái cây và sản phẩm nông nghiệp của cả nước. Đáng lưu ý là hội thảo chuyên đề về “trái cây VN, cơ hội và thách thức” với sự tham gia của khoảng 500 đại biểu, trong đó có nhiều chuyên gia nước ngoài.
Tại festival lần này cũng thiết lập 3 kỷ lục VN như: kỷ lục rồng vẽ bằng nghệ thuật graffiti dài nhất VN, kỷ lục bản đồ VN được kết bằng trái cây lớn nhất và kỷ lục “Tứ linh 1.000 năm thương nhớ đất Thăng Long”...
3. Báo Tiền phong có bài Tiếp bài Cuộc chiến wolfram: UBND tỉnh Kon Tum lách luật?. Bài báo phản ánh: Những cảnh báo về đánh giá tác động môi trường bị bỏ qua trong việc cho phép thăm dò wolfram tại Vườn Quốc gia (VQG) Chư Mom Ray. Đồng thời, 198 ha rừng đặc dụng mà UBND tỉnh Kon Tum đề nghị các cơ quan chức năng xem xét cho phép thăm dò, khai thác wolfram có phải là chiêu lách luật? Ông Trần Thế Liên, Vụ trưởng Vụ Bảo tồn - Tổng Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT) cho biết, sau khi UBND tỉnh Kon Tum đề nghị chuyển đổi hơn 1.686 ha rừng đặc dụng sang rừng sản xuất, trong đó chuyển 198 ha để thăm dò, khai thác khoáng sản, lãnh đạo bộ đã giao Cục Kiểm lâm và Cục Lâm nghiệp vào kiểm tra thực trạng để báo cáo.
Theo Cục Kiểm lâm: “Khu vực dự kiến thăm dò, khai thác mỏ đá kim nằm trong Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn Quốc gia Chư Mom Ray”. Cũng theo Cục Kiểm lâm việc này đòi hỏi phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác định rõ vị trí, ranh giới, quy mô dự án. Trong đó có các giải pháp an toàn về môi trường, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường; phương án tổ chức khai thác mỏ đá kim phải gắn với bảo tồn VQG. Cục Kiểm lâm cũng đề nghị UBND tỉnh Kon Tum xem xét, rà soát lại hiện trạng rừng khu vực dự kiến khai thác mỏ, nếu khu vực đó không đáp ứng các tiêu chí phân loại rừng đặc dụng thì báo cáo với Bộ NN&PTNT để nghiên cứu, góp ý thẩm định lại và trình Thủ tướng xem xét quyết định.
Sau khi Chính phủ phê duyệt chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, UBND tỉnh phải chỉ đạo các ngành chức năng, chủ đầu tư lập báo cáo đánh giá tác động môi trường do việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng. Tuy nhiên, theo ông Đào Xuân Quý, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum (trả lời báo Tiền Phong, ngày 13-4), trong Giấy phép thăm dò wolfram Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ TN & MT), thì việc đánh giá tác động môi trường không được đặt ra.
Tại Công văn số 2833/BNN-LN 15-10-2007, gửi UBND tỉnh Kon Tum, Bộ NNPT&NT khẳng định: Về phân cấp mức độ phòng hộ thì tiểu khu 663 chỉ có một khoảng đạt mức độ xung yếu, còn lại ở mức độ ít xung yếu; đồng thời tiểu khu 663 có trữ lượng wolfram khá lớn và đang bị khai thác trộm. Bộ NN&PTNT nhất trí với đề nghị của UBND tỉnh Kon Tum về việc chuyển 1.686 ha rừng đặc dụng tại tiểu khu 663 VQG Chư Mom Ray sang quy hoạch rừng sản xuất và đề nghị UBND tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Tuy nhiên, trong văn bản này, những con số cụ thể về hiện trạng rừng (xung yếu, ít xung yếu) không được Bộ NN&PTNT nói rõ.
Trao đổi với PV Tiền Phong, ông Hà Công Tuấn - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho hay, về vấn đề này, phải lật lại hồ sơ, nghiên cứu kỹ mới có thể trả lời được. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, về quan điểm phải báo cáo Quốc hội theo Nghị quyết 66, là khi chuyển đổi mục đích sử dụng rừng đặc dụng trên 200 ha; tức là diện đó không còn là đất lâm nghiệp, không còn đất rừng nữa. Việc chuyển hơn 1.600 ha ở Chư Mom Ray không cần đến ý kiến của Quốc hội. Việc chuyển đổi từ rừng đặc dụng sang rừng phòng hộ, sản xuất, hoặc ngược lại đều theo cấp quyết định. Ở đây, quyết định có chuyển đổi VQG Chư Mom Ray hay không là do Chính phủ, như vậy là đúng thẩm quyền.
Diện tích rừng mà UBND tỉnh Kon Tum đề nghị các cơ quan chức năng xem xét chuyển đổi để thăm dò, khai thác wolfram là 198 ha. Nếu theo cách hiểu của ông Tuấn, khi chuyển 200 ha rừng đặc dụng trở lên không còn đất rừng nữa mới trình Quốc hội, ở đây có phải là chiêu lách luật của UBND tỉnh Kon Tum? Mặt khác, ông Tuấn cho rằng, rừng đặc dụng có những quy định nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn rừng sản xuất. Rừng sản xuất có thể được khai thác bền vừng, thậm chí những nơi rừng nghèo kiệt có thể cải tạo để trồng lại. Chính sách đối với rừng sản xuất cởi mở hơn vì rừng sản xuất là để kinh doanh. Tác động cho nó tốt lên thì có lợi, nhưng tác động, khai thác, tận thu quá mức thì rất bất lợi. Như vậy, việc cho phép chuyển 1.686 ha rừng đặc dụng sang rừng sản xuất, chẳng khác nào “cởi nút” cho doanh nghiệp vào rừng. Và khi hình thành công trường khai thác giữa VQG trù phú về đa dạng sinh học như Chư Mom Ray, liệu hệ sinh thái có còn cho mai sau?
Nhiều diện tích rừng đặc dụng hiện nay đang được nhiều tỉnh đề nghị xem xét chuyển đổi sang rừng sản xuất. “Chúng tôi cũng nhận được nhiều đề nghị từ các địa phương cho chuyển loại rừng, mục đích sử dụng rừng. Nhưng không phải đề nghị nào chúng tôi cũng đồng ý; tất nhiên, nhiều cái, quyết định cuối cùng không phải là chúng tôi. Ở các VQG, khu bảo tồn là nơi có nhiều động thực vật quý, đồng thời có tiềm năng thủy điện, khoáng sản dưới rừng nên sức ép ghê gớm” - Ông Tuấn chia sẻ.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới có bài Công chứng tư: Chưa quản chặt. Bài báo phản ánh: Thông tin về cái chết của Trưởng văn phòng Công chứng (VPCC) Việt Tín (Hà Nội) liên quan đến việc chứng nhận nhiều hồ sơ giả khiến không ít người dân lo lắng, vì không biết hồ sơ công chứng của mình thật hay giả, phải xử lý thế nào. Theo luật gia Lê Hồng Sơn, căn cứ vào Luật Công chứng, với những hồ sơ giả quá tinh vi, công chứng viên (CCV) không thể phát hiện bằng cảm quan, thì xem như người dân lãnh đủ hậu quả.
Vấn đề đặt ra là, khi hệ thống phòng công chứng (PCC) nhà nước độc quyền hoạt động, hiếm khi cơ quan chức năng phát hiện thấy sai phạm. Nhưng khi VPCC (hay còn gọi là công chứng tư) được cấp phép hoạt động, ngày càng có nhiều điều tiếng liên quan đến công tác thẩm định giấy tờ của đội ngũ này, nhất là khi yếu tố cạnh tranh, hút khách được nhiều VPCC đưa lên hàng đầu. Ông Phạm Thanh Cao, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp thừa nhận, trước thời điểm xảy ra vụ việc ở VPCC Việt Tín, đã có một số VPCC phản ánh việc nhiều người dân sau khi thực hiện hợp đồng mua tài sản có công chứng của Việt Tín đã đến cơ quan đăng ký nhà đất để làm thủ tục sang tên thì mới ngã ngửa vì các giấy tờ hợp đồng đều là... giả.
Qua tìm hiểu cho thấy, một số đối tượng đã làm giả các văn bản hợp đồng công chứng ủy quyền của một VPCC khác với nội dung nhượng tài sản nhà, đất. Sau đó, mang hợp đồng ủy quyền rởm này đến VPCC Việt Tín để công chứng hợp đồng mua bán tài sản cho người mua. Cách đây không lâu, luật sư Nguyễn Phương Nam (Trưởng văn phòng luật sư số 10) đã tiếp nhận hồ sơ 3 khách hàng ở quận Hoàn Kiếm, với 3 hợp đồng ủy quyền có dấu hiệu sai phạm do Việt Tín công chứng. Cụ thể, trong 3 bản hợp đồng này đều ủy quyền cho một người tên Linh. Theo đó, Linh được bố mẹ ủy quyền, thay mặt gia đình bán 2 căn hộ có giá trị hàng tỷ đồng ở các phố Nguyễn Công Trứ, Cầu Gỗ (Hà Nội). Khách hàng mang hồ sơ đến gặp cơ quan chức năng về nhà đất thì bị từ chối với lý do bản công chứng không hợp lệ. Ngoài ra, khi khách hàng đã "mục sở thị" căn nhà được Linh bán (theo nội dung hợp đồng ủy quyền) thì tá hỏa, căn nhà đang thuộc sở hữu của một người khác. Trước đó, Sở Tư pháp Hà Nội cũng đã nhận được báo cáo của VPCC Thăng Long cho biết, VPCC Việt Tín có liên quan đến 4 bộ hồ sơ ủy quyền được làm giả tinh vi (có 4 bộ hồ sơ kèm theo). Tất cả những chữ ký của các CCV thuộc VPCC Thăng Long và con dấu trong 4 bộ hồ sơ ủy quyền mua bán nhà, đất đều bị làm giả. Những bộ hồ sơ này được các đối tượng mang đến VPCC Việt Tín công chứng để chuyển từ người ủy quyền thành người chuyển nhượng. Và CCV Nguyễn Minh Hải là người ký và đóng dấu công chứng những bộ hồ sơ này. Ngay sau khi xác minh sự việc nêu trên là có thật, Sở Tư pháp tính đến chuyện chấm dứt hoạt động của VPCC Việt Tín và niêm phong toàn bộ hồ sơ, giấy tờ của văn phòng này để phục vụ công tác điều tra.
Theo luật gia Lê Hồng Sơn, khi để lọt hồ sơ giả, trách nhiệm của CCV như thế nào thì Luật Công chứng lại chưa làm rõ. Phân tích kỹ hơn về vấn đề này, ông Sơn cho biết, trong trường hợp người dân "dính" hồ sơ giả đem công chứng, dẫn đến thiệt hại, muốn đòi bồi thường phải kiện ra tòa và phải thu thập các chứng cứ liên quan để chứng minh thiệt hại đã xảy ra... Sau đó, nếu tòa xác định CCV có lỗi (làm sai quy trình hoặc biết giả mà vẫn chứng thực) thì CCV mới phải bồi thường. Quy định như vậy, nhưng với những hồ sơ giả quá tinh vi, CCV không thể phát hiện bằng cảm quan, thì xem như người dân lãnh đủ.
Mặt khác, theo phản ánh của người dân, tại một số VPCC tư, người giao dịch phải trả phí cao hơn công chứng nhà nước. Bởi ngoài mức phí theo quy định, VPCC còn thu thêm thù lao công chứng. Khoản thù lao này không có một khung chuẩn nào mà do hai bên (người làm công chứng và người đi làm công chứng) thỏa thuận, căn cứ vào tính chất phức tạp của từng dịch vụ. Đây chính là vấn đề các cơ quan quản lý cần sớm vào cuộc để giải mã. Thực tế cho thấy, tính phức tạp của dịch vụ công chứng, chứng thực rất khó đong đếm và không phải ai đi công chứng cũng hiểu biết về pháp luật cũng như mọi thủ tục... Trong khi đó, người dân chỉ nghĩ giá mình phải trả là do Nhà nước quy định vì 41/42 VPCC trên địa bàn Hà Nội đều tự đeo cho mình cái mũ trực thuộc Sở Tư pháp trên biển hiệu.
Cách ghi này dễ gây nên sự hiểu nhầm rằng VPCC này là đơn vị trực thuộc Sở Tư pháp. Trong khi đó, khoản 1 Điều 26 Luật Công chứng khẳng định, VPCC do một CCV thành lập được tổ chức và hoạt động theo mô hình và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Còn VPCC do hai CCV trở lên thành lập thì theo mô hình công ty hợp danh. Các loại hình VPCC này tự chịu trách nhiệm về hoạt động và chỉ chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp về lĩnh vực công chứng chứ không phải là đơn vị trực thuộc của Sở Tư pháp. Và cũng theo quy định của pháp luật (Điều 2 Nghị định 02/2008/NĐ-CP), Sở Tư pháp chỉ có vai trò là cơ quan giúp UBND quản lý nhà nước về công chứng chứ không phải là cơ quan chủ quản. Việc các VPCC bị "loạn" như trên hơn ai hết các cơ quan tư pháp, đặc biệt Bộ Tư pháp là cơ quan thông hiểu pháp luật phải là người đầu tiên lên tiếng. Thế nhưng đáng buồn là Luật Công chứng đã đi vào cuộc sống 2 năm mà tình trạng loạn "tên cha, tên mẹ" nêu trên vẫn đang tồn tại và gây không ít hậu quả nghiêm trọng.
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Chiều 16/4, sau khi có văn bản của Bộ Tư pháp về những vướng mắc trong chi trả bảo hiểm cho người bị tai nạn giao thông, lãnh đạo Bộ Y tế đã nghe Vụ Bảo hiểm y tế giải trình và yêu cầu các bộ ngành liên quan tìm hướng giải quyết. Thông tư 09 về hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế có quy định, người bị tai nạn giao thông phải có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật mới được thanh toán. Tuy nhiên, theo công văn ban hành ngày 14/4 của Bộ Tư pháp thì nội dung này không phản ánh đúng tinh thần và nội dung của Luật Bảo hiểm y tế, gây phiền hà, bế tắc cho người dân. Vì thế, lãnh đạo Bộ Y tế yêu cầu các ngành liên quan cùng bàn bạc, sớm thống nhất tìm ra hướng giải quyết vướng mắc, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người dân trên tinh thần đúng Luật Bảo hiểm y tế.
Ông Lê Văn Khảm, Phó vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế cho biết: "Tỷ lệ người bị tai nạn giao thông nhập viện ở nước ta rất lớn nên cần thiết phải có quy định cụ thể với đối tượng này. Tuy nhiên, khi mới triển khai vào thực tế, việc xuất hiện nhiều vướng mắc cũng là điều bình thường". Thực tế, Vụ đã nhận được phản ánh của nhiều bệnh viện rằng có rất ít bệnh nhân bị tai nạn giao thông được thanh toán bảo hiểm y tế. Theo ông Khảm "có thể do một số từ ngữ trong thông tư chưa rõ ràng nên đã gây khó khăn cho người bệnh".
Ông cũng cho biết, sau khi thông tư 09 được ban hành, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có thêm hướng dẫn cụ thể để thực hiện thông tư này. Theo đó, cơ quan công an từ cấp huyện trở lên sẽ có thẩm quyền xác nhận cho người bị tai nạn giao thông có vi phạm hay không. Tuy nhiên, những quy định hướng dẫn này vẫn chưa rõ ràng gây nhiều khó khăn cho người bệnh. Tại Bệnh viện Việt Đức, nơi tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị tai nạn giao thông, hầu hết bệnh nhân đến không có được biên bản xác nhận là có vi phạm luật hay không, thậm chí sau một thời gian nằm viện, bà Nguyễn Thị Bích Hường, Trưởng phòng kế hoạch tài chính của bệnh viện cho biết.
Theo bà Hương, lý do là vì sau tai nạn, người bệnh thường được đưa vào bệnh viện cấp cứu ngay, hiện trường không được giữ nguyên nên cơ quan công an không xác nhận. Cũng có thể họ đi trong đường làng, đường xã, tự ngã thì cũng khó có ai làm chứng. "Thường chỉ những vụ việc rất nặng, ảnh hưởng đến tính mạng thì hiện trường tai nạn mới được giữ nguyên. Còn tất cả những trường hợp ngã sứt chân, gãy xương thì hầu như không ai để hiện trường đợi công an đến. Vì thế, hiện chỉ có khoảng 30% bệnh nhân bị tai nạn giao thông được thanh toán trực tiếp tại bệnh viện. Số còn lại phải tự trả viện phí và đợi thanh toán với bảo hiểm xã hội", bà Hường nói. Cũng theo bà, biểu mẫu, văn bản giấy tờ của công an xác nhận đưa đến viện cũng chưa có mẫu thống nhất nên bệnh viện khó làm, không biết giấy như thế nào là đạt yêu cầu.
3. Báo Công an nhân dân có bài Một cán bộ tư pháp xã tự tử. Bài báo phản ánh: Xác anh Đỗ Kim Tài (32 tuổi, cán bộ Tư pháp xã Tam Thanh, Tp Tam Kỳ, Quảng Nam) được vợ phát hiện tại nhà trong tình trạng nằm bất động trên giường, miệng sùi bọn mép và ra máu. 17h30' ngày 15/4, chị Trần Thị Đạo (30 tuổi, trú tại Khu tái định cư thôn Tỉnh Thủy, xã Tam Thanh, TP Tam Kỳ, Quảng Nam), đi học thêm từ Tam Kỳ về nhà. Lúc chị mở cửa nhà ra thì ngửi mùi thuốc trừ sâu nồng nặc, chị nhìn trên giường thì thấy chồng mình là Đỗ Kim Tài (32 tuổi, cán bộ Tư pháp xã Tam Thanh), nằm bất động trên giường miệng sùi bọt mép và ra máu.
Quá hoảng hốt chị tri hô. Người dân xung quanh chạy tới đưa anh Tài đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam, nhưng đã quá muộn, anh Tài đã ngấm thuốc nên đã chết trên đường đi cấp cứu. Hiện vụ việc đang được cơ quan chức năng điều tra làm rõ.
4. Trang web Diễn đàn doanh nghiệp có bài Sửa các văn bản "lệch pha": Hứa xa, nhưng quên gần. Bài báo phản ánh: Ngày 11/2/2010, Bộ Tài chính gửi Công văn số 2122/BTC-CST tới Bộ GTVT, Bộ Công thương, Bộ Công an, Bộ Tư pháp… trao đổi ý kiến về Công văn số 17927/BTC-TCHQ ngày 22/12/2009 do bộ ban hành hướng dẫn phân loại mặt hàng ôtô tải tự đổ có tổng trọng tải cả hàng hóa và xe trên 24 tấn nhưng chưa quá 45 tấn. Theo đó, Bộ Tài chính yêu cầu phải ghi vào tờ khai nguồn gốc nhập khẩu của loại xe này là: “xe ôtô tải tự đổ không sử dụng trên các loại đường quốc lộ”, để làm cơ sở Công an các địa phương cấp đăng ký lưu hành cho loại xe này. Bộ Tài chính “trần tình”, rằng Công văn 17927/BTC-TCHQ do bộ ban hành là có “ý kiến thống nhất với Bộ Công an và Bộ GTVT”. Tuy nhiên, khi áp dụng Công văn 17927/BTC-TCHQ thì phát sinh vướng mắc. Cụ thể, cơ quan Công an một số địa phương không cấp đăng ký lưu hành cho xe, nếu tờ khai nguồn gốc ghi: “xe ôtô tải tự đổ không sử dụng trên các loại đường quốc lộ”. Lý do vì cơ quan Công an coi đây là loại xe phải nộp thuế theo diện không tham gia lưu hành trên đường giao thông công cộng, bao gồm cả quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ. Bởi thế, mà nhiều DN với vô số xe phải khốn khổ vì không thể làm thủ tục nhập khẩu hoặc đăng ký lưu hành.
Sau khi vướng mắc của cơ quan quản lý và DN được phản ánh, qua đối chiếu với các quy định hiện hành, Bộ Tài chính mới “phát hiện” sự thực. Rằng loại hình : “xe ôtô tải tự đổ không sử dụng trên các loại đường quốc lộ” mà bộ “sáng tạo” là… không có trong quy định của Công ước HS mà VN đã tham gia từ năm 1998. Công ước này ghi nhận chỉ có hai loại ôtô tải tự đổ được chạy, hay không được chạy, trên đường cao tốc.
“Sửa chữa” sự “lệch pha” giữa quy định của bộ với Công ước quốc tế, tại Công văn số 2122/BTC-CST ngày 11/2/2010, Bộ Tài chính đưa ra hai phương án. Một là, bộ “dự kiến” sẽ sửa tên phân nhóm “xe tự đổ được thiết kế sử dụng trên đường không phải đường quốc lộ” tại biểu thuế nhập khẩu thành “xe tự đổ được thiết kế sử dụng trên đường không phải đường cao tốc”. Hai là, đề nghị Bộ KHCN chủ trì xây dựng quy định, tiêu chí phân biệt xe thiết kế để chạy trên đường không phải đường cao tốc phù hợp với quy định tại Công ước HS. Từ đó làm cơ sở giảm thuế suất với dòng xe này từ 20% như hiện tại xuống mức 8%, đúng với cam kết thương mại giữa các nước khối ASEAN và Trung Quốc. Oái oăm là ở chỗ, công văn số 2122/BTC-CST của Bộ Tài chính mới dùng để trao đổi, lấy ý kiến các cơ quan liên quan, nên đương nhiên công văn 17927/BTC-TCHQ vẫn có hiệu lực thi hành. Đến thời điểm này, Bộ Tài chính chưa thu hồi công văn trái với công ước quốc tế này, hoặc thay nó bằng một chỉ đạo, hướng dẫn khác. Thế nên, ôtô tải tự đổ có tổng trọng tải cả hàng hóa và xe trên 24 tấn nhưng chưa quá 45 tấn vẫn gặp khó khăn khi nhập khẩu, và nếu đã nhập khẩu thì lại rất khó đăng ký. Dù cam kết sửa chữa, điều chỉnh thì… đã có.
Chắc rằng, kiểu “quản lý” này là… hiếm có, là độc nhất vô nhị, không thể tìm thấy tại nơi khác. Vì rõ ràng là, đã có thừa nhận sự bất hợp lý của quy định, đã có cam kết sửa chữa bất hợp lý ấy. Nhưng đến bao giờ sửa xong thì chẳng ai biết. Và cả việc dừng ngay quy định trái cam kết, thông lệ thương mại quốc tế vốn đã được xác định rõ ràng và đang tiếp tục phương hại tới DN, thì cũng không có người thực hiện, kể cả người ban hành ra quy định ấy. Thế thì hứa xa để làm gì, khi những việc có thể làm ngay lập tức thì lại chưa thực hiện?
5. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài PHẢN HỒI SAU BÀI BÁO “MỘT CÔNG VĂN KHÓ HIỂU”: Tổng cục thi hành án dân sự đã trao quyền quyết định cho chi cục thi hành án dân sự quận 3. Bài báo phản ánh: Tính tới nay, bà Nguyễn Thị Kim Thủy (SN 1965, ngụ Q3) đã 14 năm vác đơn đi yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện việc cưỡng chế người chồng cũ là Phạm Mạnh Hà (SN 1958, ngụ Q10) thực hiện nghĩa vụ chia đôi căn nhà có diện tích (10x45 mét) tại ấp 3 xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh như bản án ly hôn số 89/LH-PT ngày 23-8-1996 của TAND TPHCM đã tuyên. Phản ánh sự chậm trễ trên, Báo CATP đã liên tục có các bài viết vạch ra nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ của các cơ quan thi hành án như: 13 năm chưa thi hành xong một bản án ly hôn, Cục thi hành án “trói tay” thi hành án quận. Mới đây, trước việc ông Nguyễn Thanh Thủy - Phó tổng cục trưởng Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp có công văn gởi Tòa án nhân dân tối cao để “khiếu nại thay” cho đương sự Phạm Mạnh Hà về thông báo bổ sung và bản án của TAND TPHCM một cách khó hiểu. Báo CATP lại tiếp tục có bài viết Một công văn khó hiểu đăng trên số báo 1895, ra ngày 19-1-2010. Sau bài báo, ngày 10-2-2010, Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp đã có công văn số 293/THA-NVI gởi Chi cục Thi hành án dân sự Q3 để giải quyết theo thẩm quyền. Theo nội dung công văn trên, nếu trong quá trình giải quyết khiếu nại, tổ chức thi hành án, nếu Chi cục THADSQ3 có vướng mắc về mặt nghiệp vụ thì báo cáo, đề nghị Cục THADS TPHCM xem xét, cho ý kiến chỉ đạo...
Tuy nhiên, từ đó đến nay Chi cục THADSQ3 vẫn chưa thể thực hiện việc cưỡng chế thi hành án đối với ông Phạm Mạnh Hà. Nguyên nhân để sự việc tiếp tục kéo dài là do Cục thi hành án dân sự TPHCM đã chậm trễ trong việc trả lời văn bản xin ý kiến chỉ đạo việc thi hành án của Chi cục THADSQ3, mặc dù cơ quan này đã gởi hai văn bản xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, thời gian gởi các văn bản trên cũng đã đã kéo dài tới 46 ngày.
Thiết nghĩ, để giải quyết dứt điểm việc thi hành bản án ly hôn trên, chấm dứt chuỗi thời gian 14 năm đi tìm công lý của bà Nguyễn Thị Kim Thủy... Cục thi hành án dân sự TPHCM cần nhanh chóng có ý kiến trả lời văn bản thỉnh thị của Chi cục THADSQ3 để cơ quan này có căn cứ thực hiện việc tổ chức cưỡng chế thi hành án, đảm bảo quyền lợi chính đáng của bà Thủy. Được biết, vụ việc trên là một trong những vụ việc tồn đọng dai dẳng nhất của Chi cục THADSQ3.
6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 15-4, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Tài ký quyết định cho phép thành lập năm văn phòng thừa phát lại. Đây là những văn phòng đầu tiên trên cả nước. Các văn phòng thừa phát lại có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính. Thừa phát lại sẽ đảm trách các việc như tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án. Mô hình thừa phát lại đã có từ trước năm 1975 tại miền Nam...
7. Báo Lao động có bài Ai bảo vệ quyền hành nghề của luật sư?. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Khi luật sư Phạm Văn Kh. thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương tiếp xúc với Uỷ ban Bảo vệ quyền lợi luật sư thuộc Liên đoàn Luật sư VN, trên khuôn mặt và đầu anh đầy thương tích.Tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, anh không hình dung thử thách khắc nghiệt của nghề nghiệp không phải đến từ những phiên toà nóng bỏng nơi công đường, mà chính là quyền tự do thân thể và danh dự uy tín của mình bị xúc phạm một cách đặc biệt nghiêm trọng.
Vào ngày 31.3.2010, sau khi tham gia phiên toà bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho một bị đơn trong vụ kiện tranh chấp ly hôn tại TP Đông Hà, Quảng Trị, anh và người em đang uống càphê tại quán Sao Xanh trên đường Lê Quý Đôn, TP Đông Hà thì bị một thanh niên xông vào dùng mũ bảo hiểm đánh thẳng vào mặt và đầu, sau đó ném ly thuỷ tinh vào mặt. Theo kết quả điều trị ban đầu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, luật sư Phạm Văn Khánh bị đa chấn thương vùng đầu và mặt, phải khâu 13 mũi... Sự việc đối tượng hành hung dẫn đến thương tích đối với luật sư Phạm Văn Kh. vừa nêu không chỉ xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ và nhân phẩm của luật sư, mà còn thể hiện thái độ coi thường pháp luật, cố ý xâm hại đến quyền hành nghề hợp pháp của luật sư khi tham gia tố tụng trong vụ án dân sự, gây sự phẫn nộ sâu sắc trong dư luận và đông đảo giới luật sư cả nước.
Ngay sau khi xảy ra vụ việc, Liên đoàn Luật sư VN đã có văn bản gửi đến Giám đốc Công an và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Quảng Trị đề nghị tiến hành điều tra làm rõ và xử lý nghiêm khắc người đã gây ra thương tích nghiêm trọng cho luật sư Kh.
Trong những năm gần đây, bên cạnh bước chuyển rất cơ bản trong nhận thức xã hội và quan niệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với vị trí, vai trò của luật sư, vẫn còn những cản ngại, khó khăn nhất định trong quá trình luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự và một số hoạt động tố tụng khác. Bên cạnh việc nâng cao trách nhiệm khi hành nghề của luật sư, ở một phạm vi hẹp, có hiện tượng trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm, thiếu cơ chế bảo vệ, nên một số luật sư đã bị đương sự tố cáo sai sự thật, rượt đuổi đánh ngay tại phiên toà, bị xâm phạm trực tiếp và gây thương tích trên thân thể, bị đe doạ, hành hung, tung tin ác ý, thậm chí đặt vòng hoa, đưa quan tài… đến tận Văn phòng luật sư để đe doạ, nhục mạ.
Trách nhiệm của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân, nhằm bảo vệ thực thi đúng đắn và sự công minh của pháp luật. Về mặt quan niệm, trong một chừng mực nhất định, có thể nói, chế định luật sư là tài sản văn minh pháp lý của nhân loại, là tiêu chí đánh giá mức độ phát triển dân chủ của xã hội. Nếu quyền và lợi ích hợp pháp khi hành nghề của luật sư mà không bảo vệ được, thậm chí bị xâm phạm không được giải quyết công bằng hợp lý thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự liệu có bảo vệ được không ? Nói rộng ra, làm sao thực hiện được chức năng xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh?
Bảo vệ quyền và lợi ích hành nghề hợp pháp của luật sư, bảo đảm hành nghề theo pháp luật của luật sư là một trong những nhiệm vụ, đồng thời là quyền hạn quan trọng của Liên đoàn Luật sư VN và các đoàn luật sư địa phương. Nhiệm vụ này có quan hệ đến sự phát triển của nghề luật sư, đến mức độ tín nhiệm của công chúng trong xã hội đối với luật sư, đến giá trị kỳ vọng của người dân đối với tính minh bạch và công bằng của nền tư pháp và sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền của nước ta. Do đó, bên cạnh trách nhiệm của Liên đoàn Luật sư VN nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư, tạo lập không gian cho sự sinh tồn và phát triển nghề luật sư, rất cần một sự đồng thuận trong xã hội lên án các hành vi xâm phạm đến quyền hành nghề của luật sư và sự cần thiết xử lý kịp thời, nhanh chóng, nghiêm khắc của các cơ quan chức năng và tiến hành tố tụng đối với hành vi vi phạm nói trên.