Điểm tin báo chí sáng ngày 27 tháng 7 năm 2012

27/07/2012
Trong buổi sáng ngày 27/7/2012, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin: Nhận lời mời của Tổng thống LB Nga Vla-đi-mia Pu-tin, ngày 26-7, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Ðoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời Hà Nội, thăm chính thức LB Nga từ ngày 26 đến 30-7.

2. Trang vtv.vn đưa tin: Sáng 26-7, đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước đã tới đặt vòng hoa tại Đài Tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ trên đường Bắc Sơn và vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 Cũng trong ngày này, các đoàn đại biểu của Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động Thương binh và xã hội, đoàn đại biểu của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và đông đảo các tầng lớp nhân dân đã vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.      

Trang này cũng đưa tin: Trong 2 ngày, 24 và 25, tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Hội đồng Di sản Văn hóa quốc gia tổ chức hội thảo "Xác định những giá trị nổi bật toàn cầu của Quần thể danh thắng Tràng An" nhằm thống nhất những tiêu chí đệ trình lên UNESCO. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học cùng các chuyên gia tư vấn uy tín trong nước và quốc tế.

 3. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ căn cứ Nghị quyết về chất vấn và trả lời chấn vấn tại kỳ họp thứ 2, 3, Quốc hội khóa XIII cũng như việc thực hiện lời hứa trước Quốc hội tại 2 kỳ họp vừa qua để báo cáo kết quả thực hiện của từng Bộ, ngành tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII. Văn phòng Chính phủ đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ gửi Báo cáo đến Văn phòng Quốc hội trước ngày 20/9/2012.

Theo dự kiến, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII sẽ diễn ra vào tháng 10/2012.

Báo cũng đưa tin: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa chỉ đạo Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, hoàn thiện Dự thảo Quyết định quy định tiêu chuẩn chức danh công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính nhà nước. Thủ tướng lưu ý việc hoàn thiện dự thảo này phải trên cơ sở ý kiến kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn, chức danh cán bộ.

Dự thảo sau khi hoàn thành sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Thủ tướng cũng đồng ý đưa ra ngoài Chương trình công tác năm 2012 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Đề án Tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn, chức danh cán bộ và Đề án cơ chế phát hiện, tiến cử và sử dụng người tài.

Trước đó, Bộ Nội vụ đã chủ trì soạn thảo dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý trong các tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ. Theo đó, Bộ Nội vụ đề xuất tiêu chuẩn 7 chức danh lãnh đạo, quản lý gồm: Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Phó tổng cục trưởng, Vụ trưởng, Phó vụ trưởng, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Đại Đoàn kết có bài Hết thời “hạ cánh an toàn”? Bài báo phản ánh: "Việc nghỉ hưu, chuyển công tác hay sức khỏe yếu... đều không được coi là lý do, điều kiện miễn trách nhiệm hình sự”. Từ ý kiến của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trong buổi đối thoại trực tuyến tại Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ sáng 24-7 vừa qua, dư luận đặt vấn đề: Liệu đã hết thời "hạ cánh an toàn” đối với những vị quan tham, vô trách nhiệm gây hại cho dân?

 Tại Phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, Hà Nội, mặc dù Uỷ ban kiểm tra Thành ủy Hà Nội đã có văn bản kết luận: Ông Vương Tuấn Phong, Bí thư Đảng ủy phường này, phải chịu trách nhiệm chính, trong thời còn làm Chủ tịch UBND phường khi duyệt cấp đất giãn dân trái luật hàng nghìn mét vuông và nhiều sai phạm khác… Vậy mà nay vị Bí thư này chỉ bị xử lý theo cách: Thôi giữ tất cả các chức vụ. Như thế, khác nào hạ cánh an toàn. Trưởng Ban Kiểm tra quận ủy Hoàng Mai Chu Phúc khi nói về trường hợp này, cho biết: Vì Bí thư Phong đang bị ung thư độ 3, theo quy định của Đảng, chỉ xử lý như thế để đảm bảo tính "nhân đạo” đối với đảng viên vi phạm(!?). Như thế, lẽ nào chúng ta vô hình chung đồng nghĩa "nhân đạo” với việc bỏ lọt người, lọt tội trong hành xử đối với tội phạm. Nếu bệnh có hiểm nghèo đến đâu, nên chăng, cũng chỉ được hoãn thi hành án là cùng; không có điều luật nào cho phép được miễn trách nhiệm hình sự như trong vụ việc này.

 Tại Tập đoàn Sông Đà, cựu Chủ tịch HĐQT Lê Văn Quế, sau khi để lại món nợ lớn 8.585 tỷ đồng cho doanh nghiệp nhà nước này, cũng đã kịp "hạ cánh an toàn” vào tháng 10-2011, trong khi nguồn vốn sử dụng trong kinh doanh của đơn vị chủ yếu là vốn vay, vốn từ các khoản vay nước ngoài do Chính phủ bảo lãnh là 4.090 tỷ đồng(!?). Một câu hỏi đặt ra: Vậy, sau khi ông Quế "hạ cánh an toàn” thì ai sẽ phải gánh chịu số nợ này nếu không phải là dân?

 Ở vụ án "nuốt” hơn hai chục héc ta đất trong "Dự án trang trại phường Đồng Tâm” (TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc) vừa được đưa ra xét xử mới đây, 1 trong 9 vị nguyên là lãnh đạo tỉnh Vĩnh Phúc, ông Nguyễn Văn Hòa, đã nghỉ hưu. Thời còn đương chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh, ông này đã có nhiều sai phạm liên quan đến đất đai và bị khởi tố với tội danh "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Vậy mà tại phiên tòa xét xử mới đây, bị cáo Hòa chỉ bị chủ tọa tuyên phạt cảnh cáo(!?).

 Ba trong rất nhiều những ví dụ chưa thể đưa ra ở đây cho thấy, dân gian quả đúng khi thường dùng câu cửa miệng: "Nói vậy mà không phải vậy”. Đúng là, theo Bộ trưởng Hà Hùng Cường, Bộ Luật Hình sự nước ta qua những lần sửa đổi cũng đã quy định theo hướng xử lý nghiêm khắc hơn những tội phạm về chức vụ nói chung, đặc biệt là nhóm tội phạm liên quan đến tham nhũng. Nhưng, vấn đề là ở chỗ người thực thi luật có tuân thủ luật hay không? Và, có chế tài nào đảm bảo kiểm tra nghiêm được xem họ có tuân thủ luật hay không? Tuy nhiên, nói như cách mà người đời thường nói: Không dễ gì khi chúng ta tự cầm dao đi chặt tay trái của mình. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, năm nay 97 tuổi đời, 72 tuổi Đảng đã từng có ý kiến đề xuất về một cơ quan kiểm tra có thể phát huy được cao nhất vị trí, chức năng của mình. Có được như vậy Đảng mới thực hiện thành công Nghị quyết TƯ 4; mới có thể kiểm tra nghiêm được xem họ- các quan chức, các đảng viên của Đảng có tuân thủ luật hay không.

2. Báo Đất Việt có bài Có nên coi mại dâm là một nghề? Bài báo phản ánh: Mại dâm là một hiện tượng xã hội và dù muốn hay không, nó vẫn tồn tại”. Đây là nhìn nhận của Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường trong cuộc đối thoại trực tuyến với người dân hôm 24.7. Ông Cường không phải là người đầu tiên nhưng là quan chức cao cấp nhất bày tỏ quan điểm về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là chủ đề nhạy cảm và sẽ còn gây nhiều tranh cãi.

Sau ý kiến của Bộ trưởng Hà Hùng Cường, Đất Việt đã ghi nhận ý kiến của một số nhà nghiên cứu.

TS Lưu Hồng Minh (Trưởng khoa Xã hội học - Học viện Báo chí Tuyên truyền: Nên thí điểm hợp pháp hóa

Dù có ngăn chặn kiểu gì thì hoạt động mại dâm cũng chỉ còn ít hay nhiều mà thôi. Các nước châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan coi hoạt động mại dâm là một nghề hợp pháp. Tuy nhiên không thể so sánh Việt Nam với các nước này được. Mặc dù cùng là những nước Á Đông, nhưng quan niệm về “nghề mại dâm” của các nước này khác xa. Họ được tiếp cận nhiều với văn hóa phương Tây nên coi đó là nghề cũng dễ chấp nhận hơn ta.

Vấn đề bây giờ được xã hội đặt ra cho các nhà quản lý có nên coi đó là một nghề? Và nếu không cấm được thì có nên hợp pháp hóa không, hợp pháp hóa như thế nào?

Mại dâm chỉ là một hiện tượng xã hội thiểu số chứ không nên hiểu là tệ nạn xã hội. Dù có hợp pháp hóa nhưng cũng không thể coi đó là một nghề kiếm sống trong xã hội. Theo quan điểm cá nhân của tôi, định nghĩa về nghề cũng không thể đem áp vào hoạt động mại dâm. Rõ ràng, không thể thống kê được hiện tại có bao nhiêu người bán dâm nhưng con số thực tế quả là không ít. Nếu coi đó là nghề thì phủ nhận nhiều giá trị đạo đức xã hội, truyền thống văn hóa của người Việt và hiện tại là sai pháp luật .

Hoạt động mại dâm có khi công khai, có khi lén lút nhưng nên thừa nhận nó thế nào. Theo tôi vẫn có thể thí điểm một mô hình hợp pháp hóa hoạt động mại dâm sau khi có những nghiên cứu toàn diện, thấu đáo ở nhiều góc độ xã hội, văn hóa, pháp lý. Hợp pháp hóa nó ở phạm vi nhỏ hẹp để quản lý, điều chỉnh cho phù hợp với các góc độ trên rồi từ đó có thể rút kinh nghiệm. Dễ hiều hơn là cần lập những khu chuyên biệt như một số nước để làm dần dần. Tuy nhiên, quan điểm hợp pháp hóa dù thí điểm nhưng nếu không lường trước một số vấn đề liên quan như quy mô, tác động thì hậu quả xã hội sẽ rất xấu. Các nhà làm luật sẽ phải xét kỹ thời điểm, mức độ để có thể hợp pháp hóa hoạt động mại dâm. Vấn đề quan trọng nhất là về mặt quản lý xã hội hoạt động mại dâm như thế nào khi đã quy hoạch thí điểm các “phố đèn đỏ”.

Chuyên gia nghiên cứu văn hóa Phạm Văn Kính: Thừa nhận là đánh đổ văn hóa truyền thống

Coi mại dâm là một nghề tức là hợp pháp hóa mại dâm. Từ trước đến nay không lúc nào mại dâm được công khai ủng hộ. Kể cả những người mua dâm lẫn bán dâm đều có lúc thấy xấu hổ về những gì mình đã làm.

Văn hóa truyền thống được tạo dựng bao nhiêu thế hệ chứ không phải là một thời gian ngắn mà có. Tôi còn nhớ trước đây, chỉ cần ngoại tình là đã bị cả cộng đồng lên án, thậm chí tẩy chay và coi đó là “vô đạo đức” chứ không cần đến vấn đề mại dâm. Luật pháp chỉ quản lý con người ở mức tối thiểu nhưng đạo đức xã hội là tối đa. Với tôi, mại dâm (kể cả mua lẫn bán dâm) đều vi phạm đạo đức truyền thống lẫn pháp luật.

Hợp pháp hoạt động mại dâm, nếu có, sẽ “đánh đổ” văn hóa truyền thống dân tộc. Văn hóa truyền thống của đất nước có nhiều nét đẹp, nét xấu nếu có những hủ tục chưa bị bãi bỏ hay tiến bộ. Chống mại dâm là nét đẹp chứ không phải là hủ tục. 

3. Báo Dân Việt đưa tin: Ngày 25.7, ông Nguyễn Thanh Sơn – Chủ tịch UBND TP.Cần Thơ cho biết: Liên quan đến vụ ông Phạm Thanh Dũng - nguyên Phó phòng Hành chính – Tư pháp, Sở Tư pháp TP.Cần Thơ nhận hối lộ với số tiền 4,1 tỷ đồng, Đảng ủy, Ban cán sự Đảng thành phố, Ủy ban Kiểm tra, Sở Nội vụ… đã có cuộc họp tiến hành tổ chức kiểm điểm, xử lý cán bộ lãnh đạo của Sở Tư pháp.

Phần lớn các phiếu đều đề nghị với hình thức không kỷ luật. “Tuy nhiên, một mặt lãnh đạo thành phố sẽ xem xét lại Luật Phòng chống tham nhũng về việc giải quyết các vấn đề nhân sự như thế nào. Bên cạnh đó, sẽ tiếp tục xem xét, cân nhắc để việc xử lý cán bộ đảm bảo đúng pháp luật” - ông Sơn nhấn mạnh.

4. Trang CAFE.F có bài Xử lý tài sản bảo đảm: Rủi ro thuộc về ngân hàng. Bài báo phản ánh: Sự thiếu hiểu biết về pháp luật sở hữu của cán bộ ngân hàng cùng với rắc rối từ hệ thống quy phạm pháp luật là 2 nguyên nhân chính làm chậm quá trình xử lý tài sản bảo đảm đề giải quyết nợ xấu.

Để xử lý tình trạng nợ xấu tại các TCTD Cơ quan Thanh tra giám sát NHNN kiến nghị cần đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu hồi vốn do xử lý tài sản đảm bảo thời gian đang diễn ra rất chậm. Phóng viên đã có cuộc phỏng vấn với  Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật Chứng khoán - Ngân hàng - Đầu tư (BASICO), về thực trạng cũng như kiến nghị nhằm cải thiện quá trình xử lý tài sản đảm bảo tại các ngân hàng.

Ông có thể cho biết hiện trạng của xử lý tài sản bảo đảm của các ngân hàng thời gian qua như thế nào?

Hệ thống tài sản đảm bảo, ngân hàng nhận được từ khách hàng có thể tạm thời chia thành 7 nhóm. Bao gồm nhóm phương tiện vận tải, giấy tờ có giá, Bất động sản, máy móc thiết bị, hàng hóa kho hàng, tài sản người bảo lãnh, quyền tài sản.

Bất động sản là tài sản đảm bảo chủ yếu trong các ngân hàng. Theo thông tin được Thống đốc thông báo thì có đến 60% dư nợ tại các ngân hàng được đảm bảo bằng bất động sản. Tài sản đảm bảo bằng bất động sản ở đây bao gồm nhà đất, bất động sản dự án. Trên thực tế xử lý tài sản đảm bảo gặp rất nhiều khó khăn.

Khó khăn xử lý tài sản bảo đảm bất động sản do nguyên nhân nào, thưa ông?

Thời gian qua việc xử lý tài sản đảm bảo tại các ngân hàng chịu nhiều vướng mắc nhưng có 2 nguyên nhân chính. Đầu tiên là từ yếu tố chủ quan của ngân hàng, cụ thể là từ trình độ, tư duy, kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng khi nhận và xử lý tài sản đảm bảo.Thứ hai là vướng mắc từ nguyên nhân pháp lý do thủ tục hành chính phức tạp, cơ chế pháp lý không phù hợp và thứ ba do một số nguyên nhân khách quan. 

Về nguyên nhân chủ quan, nhiều ngân hàng hiện nay không có quản lý chặt chẽ về quy định chính sách bảo đảm, cũng như công cụ quản lý thông qua hệ thống quy định, quy trình bài bản, hợp đồng, biểu mẫu rõ ràng, không chú trọng đào tạo, tập huấn cho cán bộ tín dụng, dẫn tới khi nhận tài sản đảm bảo không thẩm định được nguồn gốc kỹ lượng về vấn đề sở hữu.

Có ngân hàng nhận 1 giấy tờ nhà thấy duy nhất có tên ông Nguyễn Văn A nên thấy ông Nguyễn Văn A ký tên hợp đồng là chấp nhận nhưng không biết là pháp luật liên quan đến sở hữu rất rắc rối. Giấy tờ nhà do đứng tên ông A nhưng là giấy tờ mới cấp 1 năm trở lại sau khi vợ mất. Thực tế căn nhà đã tồn tại hàng chục năm và là tài sản chung của 2 vợ chồng. Người vợ mất không để lại di chúc.

Theo pháp luật thừa kế thì ½ căn nhà sẽ được chia cho các con. Mặc dù không thể hiện trên giấy tờ nhưng các con đều có quyền sở hữu với căn nhà. Khi thế chấp tài sản và khi xử lý tài sản, nếu các con ông A không đồng ý thì không thể xử lý được, hợp đồng thế chấp vô hiệu. Trường hợp này, sự nhận thức về pháp lý không tốt của cán bộ ngân hàng dẫn đến tài sản thế chấp có giấy tờ đầy đủ nhưng cũng không xử lý được tài sản đảm bảo.

Một số nguyên nhân pháp lý đến từ hệ thống pháp luật và các cơ quan quản lý, tư pháp cũng gây khó khăn cho việc xử lý tài sản bảo đảm cho hệ thống ngân hàng. Tài sản bất động sản mặc dù được thế chấp tại ngân hàng đầy đủ giấy tờ, công chứng tài sản đầy đủ nhưng khi cần ngân hàng không thể tự bán bất động sản.

Lý do là nghị định 163 về giao dịch bảo đảm cho phép, nhưng theo Bộ luật dân sự quy định rõ hợp đồng mua bán phải là chủ tài sản hay đại diện luật pháp được ủy quyền. Do đó, tài sản đã được công chứng thế chấp nhưng bên công chứng vẫn không thể thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ cho bất động sản đó nếu như chủ tài sản không đồng ý, không ủy quyền rõ ràng và thậm chí còn phản đối việc xử lý tài sản bảo đảm của ngân hàng. 

Trong những trường hợp này, giải pháp cuối cùng để có quyền hợp pháp bán bất động sản là ngân hàng phải khởi kiện ra tòa. Nhưng thực tế, thì phải trải qua vài ba năm, qua rất nhiều cấp xét xử như sơ thẩm, phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm để xử lại từ sơ thẩm… ngân hàng mới nhận được một bản án, quyết định có hiệu lực làm căn cứ yêu cầu thi hành án xử lý tài sản bảo đảm. Mà không có gì bảo đảm chắc chắn ngân hàng thắng kiện để có thể xử lý tài sản.

Thắng kiện rồi đến khi thi hành án tại cơ quan Thi hành án dân sự để xử lý tài sản bảo đảm cũng phức tạp không kém. Tóm lại để cuối cùng xử lý được một bất động sản thì ngân hàng cũng đã tốn nhiều chi phí.

Việc xử lý còn phức tạp hơn khi các cơ quan tài phán còn có những nhận thức không nhất quán trong xử lý tranh chấp. Ví dụ là việc Tòa án Quảng Ngãi tuyên vô hiệu với hợp đồng thế chấp của bên thứ 3 cho khoản vay tại ngân hàng. Bởi theo tòa án đó phải là hợp đồng bảo lãnh thế chấp chứ không được gọi là hợp đồng thế chấp. Mặc dù sự nhận thức của Tòa án ở đây là có vấn đề khi nhầm lẫn giữa nội dung quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện hành với nội dung cũ của Bộ luật Dân sự năm 1995 đã hết hiệu lực. Điều này dẫn tới rủi ro với các ngân hàng khi đem xử lý tài sản đảm bảo có thể bị tòa tuyên vô hiệu. Như thế các khoản vay từ có bảo đảm sẽ thành không bảo đảm.

Có thể thấy xử lý tài sản đảm bảo cũng có nhiều rủi ro, nhất là khi Tòa án không chú trọng vào bản chất –  là việc dùng bất động sản để bảo đảm cho dư nợ là có thật, tự nguyện, được công chứng ghi nhận, dẫn đến dựa vào một yếu tố hình thức để tước đi cái phao cứu sinh cho ngân hàng.

Ngoài ra, trong việc xử lý bất động sản còn một số nguyên nhân khách quan khác dẫn đến vướng mắc trong xử lý như bất động sản ở trong một địa bàn phức tạp về trật tự, cộng đồng địa phương cục bộ, nhà đất có yếu tố về phong thủy không tốt… rất khó thanh lý.

Theo ông để việc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng thì cần có sửa đổi như thế nào?

Thứ nhất,  các vấn đề về sở hữu bất động sản, thì cơ quan quản lý cần có cơ chế giải quyết minh bạch về thông tin trên giấy tờ sở hữu tài sản, tránh tình trạng mập mờ về xác định sở hữu riêng, chung đối với tài sản trên giấy tờ sở hữu.

Thứ hai, các ngân hàng cần phải hoàn thiện quy trình, hệ thống cơ chế chính sách, công cụ quản lý tài sản bảo đảm trong nội bộ ngân hàng hàng. Không nên dựa hoàn toàn vào các văn bản pháp luật quy định vì thực tế diễn giải và quy nạp các vấn đề pháp luật phụ thuộc vào các chính sách, quy trình, mẫu biểu của ngân hàng. Đồng thời, cần nhận thức các công cụ pháp luật đôi khi không theo kịp diễn biến thực tế, ngân hàng nên xác định các chính sách quản trị rủi ro tín dụng và tài sản bảo đảm theo khẩu vị rủi ro của ngân hàng.

Một trong những việc quan trọng ngân hàng nên làm là tập trung phổ biến các kiến thức pháp lý, kinh nghiệm thực tế cho đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác quản lý cho vay, nhận tài sản bảo đảm của ngân hàng để phòng tránh các rủi ro pháp lý tiềm ẩn trong nhận và xử lý tài sản bảo đảm.

Về mặt pháp lý, cần thừa nhận quyền xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng, tránh mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật. Nên coi đó là quyền mặc nhiên của ngân hàng và có cơ chế bảo đảm cho quyền này được thực thi. Tại một số nước khi đã có hợp đồng thế chấp được công chứng thì khi cần xử lý tài sản, bên cho vay có thể cầm hợp đồng công chứng đó để bán tài sản thế chấp.

Còn với các cơ quan tài phán như Tòa án, khi phán quyết với các hợp đồng giao dịch bảo đảm, nhất là bất động sản, nên nhìn vào bản chất giao dịch không nên tuyên vô hiệu hợp đồng bởi lý do về hình thức. Bởi giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự, tức là trên nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận. Không nên phủ nhận cam kết đó bởi lý do hình thức, tạo điều kiện cho một số đối tượng lợi dụng để trục lợi, gây bất ổn trong quản trị rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng.



File đính kèm