I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin: Ngày 19-7, tại tỉnh Bắc Ninh, Bộ Xây dựng tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167/2008/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự và chủ trì hội nghị.
Phát biểu ý kiến chỉ đạo hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao và biểu dương những kết quả đạt được của Chương trình 167 hỗ trợ nhà ở cho người nghèo. Chương trình phát triển nhà ở cho người dân là điểm sáng trong quá trình CNH, HÐH, phát triển bền vững của đất nước. Trong khoảng 10 năm qua, diện tích nhà ở của cả nước đã tăng hai lần; bình quân diện tích nhà ở theo đầu người cũng tăng gần hai lần (từ 9,68 m2/người năm 1999 đến nay đã đạt 19 m2/người). Chất lượng nhà ở đã được cải thiện. Cả nước hiện chỉ còn 15% số lượng nhà là nhà thiếu kiên cố và nhà đơn sơ, 85% là nhà bán kiên cố và kiên cố. Thủ tướng cho rằng, nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình hỗ trợ nhà ở cho người dân như nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà cho đồng bào dân tộc thiểu số, cụm tuyến dân cư tôn nền vượt lũ... và đặc biệt là nhà ở cho người nghèo. Tất cả các chương trình này đều phù hợp với lòng dân và được nhân dân đồng tình ủng hộ, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, trước mắt, trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, các bộ, ngành chức năng cần xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng cần có sự hỗ trợ của Nhà nước đã nêu trong Chiến lược phát triển nhà ở, như người có công, người nghèo, người thu nhập thấp... Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương cũng cần tiếp tục quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách, triển khai hiệu quả các dự án xây dựng nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp; nhà cho học sinh, sinh viên; nhà cho công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Ðối với chương trình này, Thủ tướng yêu cầu, một số địa phương còn chưa hoàn thành kế hoạch của giai đoạn 1 của Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167, cấp ủy, chính quyền các địa phương cần tập trung chỉ đạo, có biện pháp, chương trình cụ thể để sớm hoàn thành giai đoạn 1 trong năm 2012. Các địa phương đã hoàn thành giai đoạn 1, để triển khai có hiệu quả giai đoạn 2, cần tập trung vào khâu sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và khâu tổ chức thực hiện; bảo đảm cơ chế, chính sách, biện pháp phải phù hợp với thực tế, có tính khả thi. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan sớm hoàn thành Ðề án hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới (giai đoạn 2011-2015) trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong quý IV-2012 để triển khai thực hiện vào đầu năm 2013.
2. Trang web vtv.vn đưa tin: Việt Nam ủng hộ đề xuất 6 điểm về vấn đề Biển Đông, mà Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa đưa ra tại cuộc hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh vào chiều 18/7 tại Hà Nội.
Tại cuộc hội đàm, hai Bộ trưởng đã trao đổi về các vấn đề liên quan đến ASEAN, trong đó có vấn đề Biển Đông và cùng nhất trí cần phải củng cố và tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực.
Hai Bộ trưởng nhất trí rằng, Biển Đông là mối quan tâm chung của ASEAN và khu vực. Bộ trưởng Phạm Bình Minh ủng hộ sáng kiến của Ngoại trưởng Indonesia về phát huy vai trò trung tâm của ASEAN đối với vấn đề Biển Đông cũng như đề xuất gồm 6 nguyên tắc cơ bản đối với vấn đề Biển Đông.
3. Trang này cũng đưa tin: Kiểm toán Nhà nước vừa công bố báo cáo kiểm toán năm 2011 về niên độ ngân sách 2010 đối với 20 bộ, 34 tỉnh thành phố, 6 chuyên đề, 27 DNNN và các tổ chức tài chính ngân hàng. Kết quả cho thấy bức tranh rõ nét hơn về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Từ đó, nhu cầu tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đang ngày càng cấp thiết hơn.
Kiểm toán Nhà nước nhận định, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước được kiểm toán lần này đã quản lý và sử dụng vốn đúng quy định. Có tới 19/21 tập đoàn, tổng công ty có lãi, tuy nhiên, kết quả kinh doanh đã giảm mạnh so với năm trước. Đáng chú ý, một nửa số DNNN hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay. Có đơn vị, tỷ lệ vay nợ trên vốn chủ sở hữu rất cao, có một đồng vốn thì đi vay đến hơn 9 đồng, điều này dẫn đến mất cân đối tài chính.
Một thực tế là, đa số DNNN được kiểm toán đều đầu tư ra ngoài ngành. Đến cuối năm 2010, tổng vốn đầu tư tài chính của các đơn vị này là hơn 37.700 tỷ đồng, bằng 6,5% vốn điều lệ. Cá biệt, có đơn vị đầu tư ngoài ngành đến 12% vốn điều lệ. Nhiều khoản đầu tư hiệu quả thấp, làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động ngành nghề chính. Do đó, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị đẩy nhanh thoái vốn với các khoản đầu tư không hiệu quả. Tổng kiểm toán Nhà nước cũng khẳng định, kiểm toán quá trình thoái vốn của DNNN là một nhiệm vụ ưu tiên trong thời gian tới.
Đối với kết quả kiểm toán các tổ chức tài chính, ngân hàng, báo cáo cho biết, Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB có tỷ lệ nợ quá hạn tăng cao, tỷ lệ nợ xấu lên đến trên 12%. Công ty Mua bán nợ Việt Nam - DATC sử dụng vốn hiệu quả thấp, gửi tiền và cho vay không đúng chức năng dẫn đến có nguy cơ mất vốn hàng chục tỷ đồng. Thực tế này cho thấy, hai định chế tài chính lớn sử dụng nguồn vốn ngân sách vào việc hỗ trợ phát triển, đổi mới DNNN đã chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Kiến thức đưa tin: Trò chuyện với phóng viên về việc dự thảo Luật Thủ đô, trong đó có bàn đến chuyện hạn chế nhập cư, GS.TS Nguyễn Lân cho rằng: "Vấn đề nhập cư là vấn đề phải quan tâm chứ không phải là mục đích duy nhất của việc xây dựng Luật Thủ đô. Tạo ra sự hấp dẫn hơn để thu hút người dân, đó mới thể hiện cái tài, vai trò của người quản lý, của người làm quy hoạch".
Quan điểm của ông như thế nào về việc siết chặt điều kiện cư trú với dân ngoại tỉnh muốn sinh sống ở Thủ đô?
Theo Hiến pháp, người dân có quyền cư trú ở mọi nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam. Vấn đề quá tải của Thủ đô cần phải có giải pháp, nhưng dùng cách nào thì còn phải xem xét.
Liên quan đến vấn đề cư dân ngoại tỉnh hay người Hà Nội gốc, gần đây trên một số diễn đàn mạng có tranh luận về vấn đề người ngoại tỉnh nhập cư tràn lan biến Thủ đô thành một đô thị hỗn tạp, ông nghĩ sao về điều này?
Đặt vấn đề như vậy sẽ gây sự chia rẽ rất lớn. Xây dựng Hà Nội phát triển là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân. Nên nhớ đây là Thủ đô, ai là người Việt Nam cũng có trách nhiệm với nó. Tất cả những người nào có công lao đóng góp cho Hà Nội thì đều xứng đáng là công dân Hà Nội. Đơn giản thế thôi.
Nói như vậy thì nghĩa là dù anh có sinh ra ở Hà Nội mà anh không làm việc, không đóng góp cho Hà Nội thì anh cũng đừng nhận mình là người Hà Nội?
Đúng vậy. Đừng vỗ ngực ta đây là người Hà Nội gốc khi không giúp ích gì cho sự phát triển của Hà Nội.
Thế nhưng rõ ràng Hà Nội đang là Thủ đô chịu quá nhiều áp lực từ việc tăng dân số nhanh mà hạ tầng thì không theo kịp, đó là lỗi của ai thưa ông?
Đó là quy luật tự nhiên của sự phát triển. Nơi nào có nhiều việc làm, kiếm tiền tốt, dịch vụ tốt, văn hóa tốt... thì nơi đó thu hút người ta đến làm việc. Cái sức hút của thủ đô rõ ràng là đã và đang rất lớn.
Hạn chế dân nhập cư theo ông có phải là một giải pháp tốt cho Thủ đô?
Không ai có thể bắt người ta phải sống ở chỗ này hay chỗ khác. Người làm lãnh đạo phải tạo ra môi trường để lôi kéo tự nhiên người ta đến với môi trường đó. Bây giờ Hà Nội đang rất cần phát triển, đang rất cần những nhà khoa học, nhà trí thức, doanh nhân, công nhân... để làm thế nào xây dựng Hà Nội tốt hơn. Vì thế, phải xây dựng những điểm thu hút mới để người dân cảm thấy thích ở những khu đó hơn là vào nội thành.
Nghĩa là giải pháp dãn dân ra ngoại thành như trước đây ta vẫn nói?
Khi tôi đến Bantimo (Mỹ), tôi thấy dân ở đây bỏ hết phố cổ để ra ngoại thành sống. Ngoại thành là một cảng mới, một đô thị sầm uất và tiện nghi, ai cũng thích ở. Chính quyền ở đây ra sức thuyết phục mà người dân không chịu vào khu phố cổ ở. Có lẽ đó cũng là bài học cho Việt Nam.
Áp dụng điều đó vào Việt Nam liệu có quá khó?
Nếu anh tạo ra một nơi ở mà có đầy đủ các dịch vụ, việc làm, an sinh xã hội, thì chẳng ai dại gì mà chui vào nội đô đông đúc chật chội. Tất nhiên, để làm được điều này thì phải có thời gian và đầu tư nhiều tiền của.
Thực tế thì việc xây dựng các khu đô thị vệ tinh cũng đã được triển khai từ lâu, nhưng người ta vẫn cứ đổ vào nội thành?
Hà Nội hiện nay có thực trạng là nhiều khu đô thị mới không ai đến. Người ta mua nhà để đấy và vẫn trở lại chen chúc sống ở nội thành. Vì ở nội thành, họ sống được, làm ăn được. Mỗi ngày chỉ bán vài cái mũ, vài đôi giầy là người ta sống được rồi. Ra ngoài kia thì người ta biết làm gì, hàng hóa bán cho ai? Ta xây khu đô thị nhưng lại chưa tạo được sự hấp dẫn ở những khu đó.
Như ông nói thì rõ ràng đến nay ta chưa thể xây dựng được những điểm hút từ các khu đô thị ngoài thành. Chưa làm được thì tạm thời cứ cấm đã, ông thấy sao?
Đã cấm là anh yếu thế. Anh cấm là vì không quản được. Đương nhiên luật lệ thì phải có cấm cái này quản cái kia, nhưng cấm là dân sẽ không phục. Cấm nghĩa là đã hết cách rồi.
Dường như ông cho rằng cái sự cấm ấy đi cùng với sự mờ nhạt của vai trò lãnh đạo, quy hoạch?
Đúng vậy. Trong những hoàn cảnh như vậy người ta mới lãnh đạo chứ. Còn nếu dùng luật, đưa ra quy định để bắt dân phải tuân theo thì quá đơn giản. Anh có công an trong tay, anh dí súng vào người ta thì người ta phải chịu thôi. Mà nếu chỉ cần có thế, thì ai chẳng làm được lãnh đạo.
Những giải pháp, những yếu kém ông vừa chỉ ra tôi nghĩ rằng không phải họ không biết?
Thực ra người ta cũng học nhiều, đọc nhiều, đi nhiều nhưng "cái khó bó cái khôn". Ví dụ, giờ nếu có tuyến tàu điện ngầm thì sẽ giải quyết vấn đề ách tắc giao thông nhưng tiền đâu mà làm? Mỗi km đường ngầm tốn biết bao nhiêu là tiền trong khi đó trường học vẫn thiếu, bệnh viện vẫn quá tải, thì phải ưu tiên đầu tư cái gì trước chứ. Hoàn cảnh nó như vậy chứ không phải muốn như vậy hay người ta không biết. Người ta biết chán đấy, nhưng giờ làm thế nào đây khi không có tiền? Ai cũng biết xe buýt tốt, tàu điện ngầm tốt, đường trên cao tốt, nhưng không có tiền để làm thì phải chịu thôi.
Nói như vậy thì chẳng lẽ ta lại cứ mãi như thế này thưa ông?
Chúng ta đang phát triển dựa vào thực lực của mình. Làm ra của cái vật chất, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân. Nhưng trong tình cảnh hiện nay của ta thì buộc phải cái khó ló cái khôn, cố gắng khắc phục để đi lên dần dần. Cho nên đòi hỏi người lãnh đạo trong từng thời kỳ biết được cái gì là chính, cái gì là phụ, cái gì là chưa cần thiết, cái gì là đi đúng, cách làm thế nào... Đòi hỏi mọi người phải suy nghĩ, động não, góp phần làm thế nào để phát triển thì mới bền vững được.
2. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn: "Trách nhiệm hình thức" vì luật thiếu cụ thể! Bài báo phản ánh: Sau khi bố mẹ ly hôn, những đứa trẻ sẽ ở với bố hoặc mẹ. Trên thực tế việc yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn đang tồn tại nhiều bất cập, thậm chí trở thành "món nợ khó đòi" đối với cả cơ quan thi hành án và người được cấp dưỡng.
Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.
Thực tiễn cho thấy, rất nhiều trường hợp, hai bên không thể tìm được tiếng nói chung. Lúc này, Tòa án căn cứ vào những quy định hiện hành và điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng. Và không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng, học hành của con và do các bên thỏa thuận.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà Tòa án sẽ quyết định mức cấp dưỡng nuôi con. Luật cũng qui định phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận định kỳ hàng tháng, hàng qúy, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
Còn tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP cũng quy định về mức cấp dưỡng nuôi con: "Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng"...
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn chưa bảo đảm được "nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng".
Theo luật, Tòa sẽ tuyên mức cấp dưỡng căn cứ vào mức thu nhập, giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án. Thế nhưng, những vụ ly hôn khi con cái còn nhỏ, phải mười mấy năm sau mới đủ 18 tuổi mà mức cấp dưỡng lại "bất di bất dịch" trong khi thị trường đầy biến động, giá cả leo thang đã khiến phần lớn mức cấp dưỡng trở thành "trách nhiệm hình thức" và đổ gánh nặng cho những người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Luật sư Trương Văn Hải, Đoàn Luật sư Hà Nội cho rằng, đây là "lỗi" của luật khi đưa ra qui định quá chung chung. Chính qui định tùy vào "khả năng thực tế" của người phải cấp dưỡng mà mức cấp dưỡng ở mỗi trường hợp ly hôn mỗi nơi một kiểu.
Việc qui định một mức cấp dưỡng "cứng" mà không có sự điều chỉnh theo thời gian khiến mức cấp dưỡng trở nên lạc hậu. Đấy là chưa kể những trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ khiến người trực tiếp nuôi con phải có đơn đề nghị cơ quan thi hành án và cơ quan tổ chức trả tiền lương, tiền công cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc khấu trừ. Thế nhưng, thực tiễn công tác thi hành án cho thấy, việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức khấu trừ tiền lương rất khó khăn. Hầu hết các cơ quan này từ chối phối hợp với cơ quan thi hành án và né tránh việc khấu trừ lương vì ngại va chạm và cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của họ!
Vì vậy, để đảm bảo cho những đứa trẻ sau khi ly hôn "phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần" thì Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi sắp tới cần có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng.
Cụ thể, nên quy định mức cấp dưỡng tính trên phần trăm thu nhập của người phải cấp dưỡng, hoặc lấy mức tiền lương tối thiểu vào thời điểm xét xử làm định khung để quy định mức cấp dưỡng. Mỗi khi mức lương tối thiểu được điều chỉnh thì căn cứ vào đó, người trực tiếp chịu trách nhiệm nuôi con sẽ yêu cầu vợ/chồng cũ thay đổi mức cấp dưỡng. Nếu người kia không tự nguyện, họ có quyền đề nghị cơ quan bảo vệ pháp luật can thiệp để đòi "nợ". Đồng thời, luật cũng cần đưa ra chế tài với người trốn tránh, chây ỳ trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, để đảm bảo quyền lợi cho những đứa trẻ vốn đã chịu nhiều thiệt thòi khi không có một gia đình trọn vẹn.
3. Báo Tiền Phong Online có bài Họp bàn 'giải cứu' 92 cô dâu Việt ở Đài Loan. Bài báo đưa tin: Hôm 18/7, Bộ Tư pháp cùng đại diện một số bộ, ngành cuộc họp bàn giải quyết hồ sơ xin nhập trở lại quốc tịch Việt Nam, trong đó có 92 cô dâu Việt đang “mắc kẹt” tại Đài Loan do bị từ chối nhập quốc tịch.
Theo Vụ Hành chính tư pháp (Bộ Tư pháp), Văn phòng Kinh tế- Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc vừa có báo cáo hiện có 92 trường hợp bị phía Đài Loan khẳng định từ chối cho nhập quốc tịch vì nhiều lý do. Các trường hợp này đang trong tình trạng không có quốc tịch, không có giấy tờ tuỳ thân, ảnh hưởng đến cuộc sống ở nước sở tại. Văn phòng Kinh tế- Văn hoá Việt Nam đề nghị các cơ quan trong nước phối hợp chặt chẽ giải quyết cho phép họ hồi hương về Việt Nam.
“Theo Luật Quốc tịch Việt Nam, việc nhập trở lại sẽ đơn giản hơn là nhập mới lần đầu. Theo tôi nên tạo điều kiện, nếu ở góc độ an ninh không có vấn đề gì thì cho những phụ nữ này được sớm nhập trở lại quốc tịch Việt Nam. Ở Việt Nam những người phụ nữ này còn bố mẹ, anh chị em ruột thịt, đang chờ đợi họ trở về”- Ông Nguyễn Minh Vũ đề nghị.
Một mặt đồng ý tạo điều kiện thuận lợi cho những phụ nữ trên sớm được nhập trở lại quốc tịch Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng cho rằng Bộ Tư pháp cùng Bộ Ngoại giao, Bộ Công an cần ngồi lại với nhau thêm để rà soát chặt chẽ từng trường hợp cụ thể. “Những trường hợp đặc biệt như bị ốm đau, bệnh tật hoặc đã ly hôn cần ưu tiên cho họ sớm được nhập trở lại. Bởi đây cũng là vấn đề nhân đạo”- ông Tụng nhấn mạnh. “Sẽ có thêm nhiều trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài. Để tránh gặp phải những rủi ro như các trường hợp trên, tôi đề nghị cần quản lý, đưa ra những quy định chặt chẽ hơn, không nên để họ dễ dàng lấy chồng nước ngoài. Quy định chặt chẽ ở đây là bảo vệ những phụ nữ Việt Nam”- đại diện Bộ Công an đề nghị.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Khởi tố nguyên chi cục trưởng thi hành án. Bài báo đưa tin: Ngày 19-7, cơ quan điều tra VKSND Tối cao đã tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với Đinh Thiên Tường (nguyên bí thư chi bộ, chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tây Hòa, hiện là cán bộ Phòng Kiểm tra - Giải quyết khiếu nại tố cáo thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên) về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Cùng ngày, các cán bộ điều tra đã đến nhà Tường để thực hiện lệnh bắt tạm giam, tuy nhiên bị can đã chuyển viện vào TP.HCM.
Theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Phú Yên, khi được giao kê biên, bán đấu giá một ngôi nhà ở huyện Phú Hòa để trả nợ vay ngân hàng, Tường cố ý kê biên không đầy đủ, định giá không hết diện tích đất… Sau đó, Tường tổ chức phiên đấu giá giả để chuyển dịch tài sản cho người khác nhằm trục lợi. Ngoài ra, Tường còn có sai phạm trong một số vụ định giá tài sản có giá trị khác.
5. Trang web vtv.vn có bài Nhiều DN “mất tích”, Thi hành án đề nghị sửa Luật. Bài báo phản ánh: TP.HCM hiện có gần 300 doanh nghiệp “mất tích” đang phải thi hành án với số tiền khá lớn. Đây mới là phần nổi của tảng băng tồn đọng thi hành án đối với các doanh nghiệp bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài mà thành phố đã phải đối mặt nhiều năm qua.
Theo thống kê, tính riêng Chi cục thi hành án quận Bình Thạnh hiện còn tồn hơn 100 vụ không thể thi hành án đối với các doanh nghiệp mất tích. Số tiền mà các doanh nghiệp này có nghĩa vụ phải thi hành từ vài tỷ lên đến cả trăm tỷ đồng. Nếu tính cả số lượng các doanh nghiệp nợ thi hành án khoảng vài chục triệu hoặc vài trăm triệu thì con số này còn lớn hơn gấp nhiều lần.
Tình trạng tồn đọng thi hành án tại các Chi cục cũng chính là thực trạng chung của ngành thi hành án dân sự TP.HCM. Trên thực tế, có khá nhiều doanh nghiệp “mất tích” mà pháp luật lại không thể điều chỉnh. Những doanh nghiệp này chỉ đăng ký vốn điều lệ bằng con số và khi “mất tích” trên thị trường đã để lại món nợ lớn phải thi hành án, trong khi đó các thành viên sáng lập doanh nghiệp lại ung dung đi đăng ký thành lập công ty mới.
Ông Nguyễn Văn Lực, Cục trưởng cục Thi hành án TP.HCM cho rằng, thời gian tới sẽ công khai danh tính trên các phương tiện thông tin đại chúng… Tuy nhiên việc công khai danh tính doanh nghiệp và người sáng lập trong các vụ khó thi hành án chỉ có ý nghĩa khi chữ tín được đặt lên hàng đầu, còn với các doanh nghiệp bỏ trốn có mục đích xù nợ thì xem như bó tay.
Trước thực trạng này, Cục thi hành án dân sự TP.HCM đã đưa ra giải pháp được xem là căn cơ khi đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật DN theo hướng đơn giản hóa thủ tục phá sản doanh nghiệp và hạn chế quyền thành lập hoặc đảm nhận các chức vụ quản lý trong doanh nghiệp mới đối với những người có trách nhiệm của doanh nghiệp nếu họ chưa thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án dân sự.
III. THÔNG TIN KHÁC
Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bộ GTVT thu hồi văn bản chỉ đạo “trật chìa”. Bài báo phản ánh: Bộ GTVT vừa có văn bản gửi Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam và các Sở GTVT về việc thu hồi văn bản chỉ đạo trước đó của Bộ liên quan đến thiết bị giám sát hành trình (hộp đen).
Đầu tháng 4, Bộ GTVT ra văn bản chỉ đạo, với các xe chạy tuyến đường ngắn được doanh nghiệp, hợp tác xã giao cho một lái xe thì không cần thiết phải gắn đầu đọc quản lý lái xe trên thiết bị giám sát hành trình.
Chỉ đạo này được các Sở GTVT cho là “trật chìa” vì như vậy trong quá trình kinh doanh xe có thể thay người lái mà không bị giám sát, quản lý; và cũng không tuân thủ quy chuẩn Việt Nam về thiết bị giám sát hành trình… Nay cùng với việc thu hồi văn bản trên, Bộ GTVT yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm chỉ cấp giấy phép kinh doanh vận tải và phù hiệu, biển hiệu cho đơn vị kinh doanh vận tải khi thiết bị giám sát hành trình có lắp đặt đủ các tính năng theo quy định.