Điểm tin báo chí sáng ngày 13 tháng 01 năm 2010

15/01/2010
Trong buổi sáng ngày 13/01/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 12-1, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải đã chủ trì Hội nghị an toàn giao thông toàn quốc năm 2009. Năm 2009, cả nước đã xảy ra 12.492 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11.516 người, bị thương 7.914 người, so với năm 2008 giảm 390 vụ, giảm 78 người chết, giảm 152 người bị thương. Tuy nhiên, trong năm qua số vụ ùn tắc lại gia tăng. Trong năm 2009, cả nước xảy ra 252 vụ ùn tắc kéo dài hơn 1 giờ (tăng 111 vụ so với năm 2008), trong đó Hà Nội xảy ra 101 vụ, TPHCM xảy ra 78 vụ…
Trước thực trạng này, lãnh đạo TP Hà Nội, TPHCM cùng đề xuất Chính phủ cho phép tăng mức xử phạt, thu phí phương tiện lưu thông theo cơ chế đặc thù của địa phương.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND TPHCM Nguyễn Thành Tài, việc áp dụng mức xử phạt vi phạm luật giao thông như đối với các tỉnh thành khác thì quá nhẹ, không phù hợp với thực tế. Nếu Chính phủ sớm phê duyệt cho thành phố thực hiện phương án thu tăng phí lưu thông, phí đậu ô tô vào trung tâm thì số tiền thu được sẽ đầu tư ngược lại cho việc duy tu đường.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ủng hộ phương án tăng mức xử phạt, tăng thu phí phương tiện giao thông. Trước mắt, các địa phương cần tăng cường giám sát và xử phạt, đặc biệt là xử phạt nguội tại các điểm nóng về trật tự ATGT qua việc lắp camera theo dõi. Bên cạnh đó, các địa phương cũng cần xem các công trình khắc phục điểm đen giao thông là các dự án cấp bách, phải được áp dụng mọi cơ chế đặc thù… để xử lý sớm nhất có thể.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Yếu tố kinh tế có làm báo chí bị thương mại hóa, tổng biên tập có nhất thiết là doanh nhân giỏi… là những vấn đề được bàn luận tại buổi nghiệm thu đề tài Phát triển kinh tế báo chí Hà Nội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN của Hội Nhà báo Hà Nội ngày 12-1.
Theo đại diện Sở Thông tin và Truyền thông TP Hà Nội, kinh tế khó khăn và cạnh tranh gay gắt, ngoài sản phẩm thông tin truyền thống, các báo còn mở rộng kinh doanh nhiều lĩnh vực khác. Còn PGS-TS Nguyễn Tất Viễn cho rằng cân đối nhiệm vụ kinh tế và chính trị như thế nào để báo chí không bị thương mại hóa là điều rất khó.
Nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Hà Nội Nguyễn Gia Quý thì cho rằng trong bối cảnh hiện nay, lãnh đạo báo, đặc biệt là tổng biên tập phải là giám đốc kinh doanh giỏi. “Ở ta ngay từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Bác Hồ đã nói: Báo chí cũng là một ngành kinh tế. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình chính là các doanh nghiệp sản xuất tin tức của ngành công nghiệp truyền thông”. Theo ông, hiện 100% cơ quan báo chí của Hà Nội không còn bao cấp, một số kinh doanh có lãi, đóng góp cho ngân sách nhà nước…
GS-TS Lương Xuân Quỳ, Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu đề tài, kết luận: Hoạt động kinh tế của báo chí đang rất sôi động. Phải có điều tra thực tế các sản phẩm kinh doanh của các loại hình báo chí, đánh giá báo chí làm kinh tế có chệch hướng nhiệm vụ chính trị không… để từ đó có kiến nghị tạo điều kiện cho hoạt động báo chí, cũng như góp ý, bổ sung vào Luật Báo chí (sửa đổi).
Báo cũng phản ánh: "Dù khủng hoảng nhưng các doanh nghiệp vẫn quyết tâm hội nhập. Điều đó thể hiện rất rõ qua tăng trưởng xuất khẩu, như năm 2007 đạt 21,3%, năm 2008 đạt 29%. Năm 2009 chúng ta âm 9%, người ta đổ tội cho việc chúng ta hội nhập nhưng theo tôi không hội nhập sẽ âm hơn nhiều”. Đó là nhận định của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại Hội thảo Vận hội và thách thức của Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO do Ban tổ chức chương trình vinh danh doanh nghiệp hội nhập WTO tổ chức hôm qua (12-1).
Ông Vũ Khoan cho rằng trong khủng hoảng và hội nhập chúng ta đã nhận thức rõ hơn sự “đỏng đảnh” của thị trường và từ đó ứng phó một cách tương đối thành công với tác động này. Đặc biệt là các doanh nghiệp đã xoay xở và thích ứng được với những tác động của hội nhập. Thông qua thử thách chúng ta đã nhận thức rõ hơn yếu kém của nền kinh tế.
Giáo sư Nguyễn Mại, chuyên gia kinh tế cao cấp, cho rằng điểm sáng sau ba năm gia nhập WTO là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến năm 2009, cả nước có gần 11.000 dự án FDI đầu tư vào 18/21 ngành với sự tham gia của 89 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn đăng ký là 175 tỉ USD, vốn thực hiện là 66 tỉ USD.Giáo sư Nguyễn Mại dự báo năm 2010, cả vốn thực hiện và chất lượng các dự án FDI vào Việt Nam sẽ được phục hồi và có thể tăng trưởng cao hơn năm 2008. Hiện chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện trên 110 tỉ USD. Hy vọng sau khủng hoảng, các nhà đầu tư sẽ thực hiện các dự án đã ký. Chỉ cần 10% số vốn cam kết được giải ngân (khoảng 10 tỉ USD) là mừng lắm rồi.
Tuy nhiên, ông Vũ Khoan cũng chỉ ra rằng nền kinh tế qua khủng hoảng bộc lộ nhiều điểm yếu: cơ sở hạ tầng kém phát triển, thiếu nhân lực có kỹ năng, cơ chế chính sách còn chưa tạo thuận lợi mà đôi khi khiến doanh nghiệp hết sức bị động... Chính những rào cản này đang đè nặng lên nền kinh tế nước ta. Trong những năm tới, chúng ta còn tham gia ký kết đàm phán nhiều hiệp định kinh tế với Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ... Do vậy, ông Vũ Khoan khuyên các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cần phải quan tâm để có ứng xử nhanh nhạy với tình hình. Đặc biệt, chính sách ứng phó phải linh hoạt, thông tin phải minh bạch để doanh nghiệp đoán trước được những thay đổi sắp tới mà có kế hoạch kinh doanh phù hợp.
Giáo sư Nguyễn Mại đề xuất nhà nước nên lập nhóm chuyên gia ở các ngành để tham gia các vòng đàm phán tiếp theo như DOHA. Đặc biệt, cần phải làm nhanh hơn việc đề nghị các quốc gia tiếp tục công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường vì có liên quan nhiều đến các vụ kiện bán phá giá. Hiện không chỉ các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng mà ngay cả cơ quan nhà nước của chúng ta đang rất bị động trong việc kiện các đối tác vi phạm quy định này.
3. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 12.1, Bộ Y tế đã có văn bản đề nghị WHO chính thức có ý kiến trả lời cho VN xung quanh việc các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải thông tin về một số hãng dược phẩm vận động hành lang tác động đến việc dự báo quá mức về đại dịch cúm A/H1N1 nhằm bán vắc-xin. Đồng thời đề nghị WHO có khuyến cáo cho VN và các nước về triển khai chống dịch giai đoạn tới và sớm chuyển 1,2 triệu liều vắc-xin viện trợ cho VN thử nghiệm an toàn và hiệu lực.
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Trịnh Quân Huấn, việc mua vắc-xin phòng cúm H1N1 chỉ đưa ra sau khi thử nghiệm lâm sàng vắc-xin này, cũng như sau khi tiến hành tiêm 1,2 triệu liều vắc-xin do WHO viện trợ. Giám sát gần đây tại 15 điểm giám sát trọng điểm trên cả nước, số ca nhiễm cúm H1N1 tại VN đã giảm rất nhanh, một số nơi không ghi nhận ca dương tính. Trong khi 3-5 tuần trước, tỷ lệ nhiễm cúm rất cao, chiếm đến 80-90% trong số các ca nhiễm cúm được xét nghiệm. Quyết định mua vắc-xin phải được cân nhắc rất kỹ lưỡng nhằm giảm thấp nhất chi phí không cần thiết, rút kinh nghiệm từ một số nước đã phải bỏ ra số tiền lớn mua vắc-xin phòng đại dịch nhưng đang phải tìm cách nhượng lại vì người dân không có nhu cầu tiêm do diễn biến dịch đã không nguy hiểm như dự báo. Hiện trong nước cũng đang tiến hành nghiên cứu vắc-xin phòng cúm H1N1 mới, dự kiến sẽ đi vào sản xuất trong năm 2010.
Trong chiến dịch phòng chống dịch cúm H1N1, riêng ngành y tế được Chính phủ cấp 100 tỉ đồng cho các hoạt động  phòng chống dịch.
Báo cũng phản ánh: Hàng loạt vấn đề đặt ra trong loạt bài Để trở thành cường quốc biển đăng trên Thanh Niên những ngày vừa qua cho thấy, kinh tế biển của ta là ngành tập trung nhiều nhất các nghịch lý. Đáng buồn hơn là các nghịch lý này đã có từ nhiều năm qua, ai cũng nhìn thấy nhưng vẫn tồn tại đến tận thời điểm này. Hậu quả là chúng ta đã lãng phí tiềm năng biển vô cùng to lớn và chưa thể trở thành quốc gia hàng hải như mong muốn.
Nghịch lý đầu tiên là trong vấn đề cảng biển. Với lợi thế bờ biển kéo dài trên 3.200 km, có nhiều vũng, vịnh trong đó có các vũng, vịnh lớn, có thể mở các cảng nước sâu quy mô để đưa, đón các tàu có trọng tải lớn. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua chúng ta chỉ tập trung phát triển các cảng nhỏ mà "quên" xây dựng cảng quốc tế lớn. Đây là lý do khiến các hãng tàu lớn trên thế giới không thể chọn VN là điểm dừng chân. Cũng có nghĩa là VN đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi này. Đến nay, khi một số cảng lớn đã và đang được triển khai thì lại "vướng" ở mảng hạ tầng cảng biển chưa đồng bộ, khiến cho việc khai thác cảng nước sâu chưa tận dụng tối đa lợi thế và công suất.
Nghịch lý thứ 2 thuộc về ngành công nghiệp đóng tàu. Chỉ trong một thời gian không dài, VN đã được xếp thứ 6 trong các cường quốc đóng tàu của thế giới với các tàu đóng mới trọng tải lớn, thiết kế phức tạp, chủng loại đa dạng. Nhưng do ngành công nghiệp phụ trợ đi kèm chưa tương xứng, công nghiệp đóng tàu VN rơi vào tình trạng phát triển thần tốc để trở thành "cường quốc gia công".
Nghịch lý thứ 3 là trong lĩnh vực vận tải biển. Năm 2009, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của VN lên tới gần 120 tỉ USD. Nghĩa là một lượng hàng hóa cực lớn được vận chuyển trên biển nhưng 80% là do các hãng tàu nước ngoài đảm nhận. Nguyên nhân là ta chưa có cảng lớn, tàu lớn dẫn đến công suất thấp, chi phí cao và không được các công ty xuất, nhập khẩu trong và ngoài nước lựa chọn. Tương tự, nghịch lý trong mảng logistic cho kinh tế biển. Cảng của ta, đường sá của ta, tàu của ta, hàng hóa của ta... nhưng khai thác chuỗi logistic cho kinh tế biển, dịch vụ "hái ra tiền" ở các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật... lại là các công ty logistic của nước ngoài. Doanh nghiệp trong nước chỉ làm vệ tinh, giải quyết vài khâu đơn giản trong quy trình logistic hoàn chỉnh mà thôi.
Điểm qua một vài nghịch lý để thấy, do chưa có tầm nhìn chúng ta đã và đang lãng phí rất lớn tiềm năng về kinh tế biển mà các nước và vùng lãnh thổ như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông đã khai thác triệt để và mang lại nguồn lợi cực lớn để phát triển đất nước. Khẩu hiệu của Hiệp hội cảng biển thế giới là "Thương mại thế giới thông qua cảng biển". Với lợi thế của mình, nếu chúng ta bắt tay ngay vào việc giải quyết các nghịch lý này thì việc trở thành quốc gia hàng hải không phải là bài toán quá khó.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Chiều 12/1, tại Hà Nội, Bộ Tư pháp tổ chức hội nghị chuyên đề triển khai công tác thi hành án dân sự năm 2010 khu vực phía Bắc.
Năm 2009 là năm đầu tiên cả nước thực hiện Luật Thi hành án dân sự. Các cơ quan thi hành án dân sự đã tổ chức thi hành trên 354.000 việc, đạt 81% số vụ việc và hơn 70% số tiền có điều kiện thi hành án. Số lượng án dân sự tồn đọng từng bước được giải quyết, tình trạng khiếu nại, bức xúc, gay gắt, vượt cấp giảm nhiều so với trước. Tuy nhiên, công tác thi hành án dân sự vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại, nhất là số lượng án tồn đọng còn nhiều. Việc chuẩn bị các văn bản hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự còn chậm, nhiều thông tư về thi hành án chưa được ban hành đúng tiến độ. Tình trạng khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự còn nhiều, nhiều vụ việc phức tạp, khiếu nại tố cáo gay gắt, kéo dài..
Trong năm 2010, Bộ Tư pháp, các cơ quan thi hành án tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ, hiệu quả Luật Thi hành án dân sự, triển khai thực hiện có hiệu quả việc thí điểm xã hội hóa thi hành án tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Hội nghị, đại biểu các cơ quan thi hành án các tỉnh khu vực phía Bắc đã thảo luận, thống nhất đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự; đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
2. Báo Tiền phong có bài của Nguyễn Quang A Bộ Tư pháp có thành văn phòng luật sư?. Bài báo phản ánh: Vừa qua, Bộ Tư pháp ký thỏa thuận hợp tác với một doanh nghiệp lớn.
Theo thỏa thuận, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm cung cấp, hướng dẫn các nội dung chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, luật quốc tế ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp đối tác; hỗ trợ chia sẻ pháp lý để các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được an toàn, nhanh chóng và hiệu quả; Bộ sẽ cử các chuyên gia có kinh nghiệm để hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp; đào tạo bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế của doanh nghiệp. Nhân dịp này, lãnh đạo Bộ Tư pháp còn nói việc hợp tác này sẽ đúc rút kinh nghiệm để giúp các DN, tập đoàn kinh tế khác. Có thể thấy gì từ sự kiện hi hữu và rất lạ này?
Về mặt hình thức, thoả thuận hay hợp đồng đã được ký giữa nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng, với khách hàng là doanh nghiệp nọ và nhà cung cấp dịch vụ là Bộ Tư pháp. Về nội dung dịch vụ mà Bộ sẽ cung cấp, có thể thấy hoạt động này của Bộ Tư pháp khá giống hoạt động của một công ty tư vấn pháp luật. Như thế, cả hình thức lẫn nội dung, thoả thuận mang tính dịch vụ thương mại. Nhưng có một sự khác biệt. Giá cả và các điều kiện thanh toán không thấy loan báo. Chỉ thấy nêu trách nhiệm của doanh nghiệp là “hỗ trợ các hoạt động, các đề án do Bộ Tư pháp chủ trì”. “Hỗ trợ” ở đây nghĩa là gì? Doanh nghiệp chắc không thể hỗ trợ về mặt chuyên môn pháp luật cho Bộ, hỗ trợ hay thanh toán bằng hàng đổi hàng. Dẫu có biến báo theo kiểu gì thì đó cũng vẫn là thanh toán (trực tiếp hay gián tiếp, bằng tiền hay bằng hiện vật). Việc thanh toán, như vậy, chắc chắn phải có, nếu không thành văn cũng có thể được thỏa thuận ngầm với nhau nhưng, có lẽ do tế nhị nên, về mặt hình thức, hợp đồng có vẻ hơi thiếu sót.
Có lẽ đấy là tài lách của các bên vì, trên danh nghĩa, một cơ quan nhà nước quan trọng như Bộ Tư pháp không thể trở thành văn phòng tư vấn luật của một công ty, càng không thể làm hợp đồng thương mại để có thêm thu nhập. Nhưng xét về bản chất thì không thể chối cãi được là Bộ làm dịch vụ và có nhận thanh toán, tức là giao dịch mang đầy đủ tính chất của giao dịch thương mại. Việc lách để cố che giấu tính thương mại, chỉ làm cho người quan sát, nhân dân  nghi ngờ sự minh bạch trong các hoạt động của cơ quan nhà nước, và như thế là rất có hại. Thế mà chẳng thấy văn phòng luật nào kêu ca vì xuất hiện một siêu đối thủ cạnh tranh. Lẽ ra họ phải nên kiện hành vi này. Nếu các văn phòng luật, có thể sợ cơ quan chủ quản, do thấp cổ bé họng, không dám lên tiếng, thì Liên đoàn Luật sư ở đâu mà im hơi lặng tiếng vậy?
Bộ không được phép làm những việc như vậy, càng không được mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ của mình cho các doanh nghiệp khác. Dù có biện bạch đến thế nào, về thực chất, dịch vụ mà Bộ cung cấp là dịch vụ thương mại mà các cơ quan nhà nước không được phép tiến hành. Điều đáng buồn là cơ quan cầm cân nảy mực về pháp lý của đất nước, với các vị lãnh đạo am tường về luật pháp lại đi làm những việc trái khoáy như vậy. Cơ quan nhà nước không thể cung cấp dịch vụ mang tính thương mại. Có lẽ Bộ đã dựa vào điểm 17, Điều 2 của Nghị định 93/2008/NĐ-CP ngày 22-8-2008 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tư pháp, theo đó Bộ “hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”. Không rõ có văn bản nào quy định rõ “hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” cụ thể là như thế nào. Nhưng nếu là cơ quan nhà nước đi hỗ trợ pháp lý, thì phải hỗ trợ vô tư, không phân biệt cho tất cả các doanh nghiệp, mà chẳng cần hợp đồng, thỏa thuận như vừa ký.
Một viện, một trung tâm của Bộ Tư pháp, với tư cách một tổ chức sự nghiệp có thu, có thể tổ chức việc cung cấp dịch vụ, thu phí và có thể cạnh tranh với các tổ chức khác. Nhưng Bộ Tư pháp, với danh nghĩa một bộ, một cơ quan quản lý nhà nước, không thể làm việc đó. Làm như vậy gây ra mâu thuẫn lợi ích. Như thế, xét về mặt pháp lý, kinh tế, quản trị và đạo lý, việc thoả thuận hợp tác như vậy của Bộ Tư pháp là không nên và có thể gây ra vô vàn tác hại cho sự phát triển đất nước.
3. Báo Thanh niên có bài Hai năm thực hiện Luật Công chứng: Yếu nhất là quy hoạch. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã cho biết như vậy tại Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện luật Công chứng và chứng thực theo nghị định 79/2007 của Chính phủ.
Theo Bộ Tư pháp, đến nay cả nước mới có 31/63 địa phương trong cả nước có văn phòng công chứng theo mô hình xã hội hóa. Tình trạng “mất cân bằng” đang diễn ra phổ biển, có thành phố chỉ riêng một quận đã có tới 10 tổ chức công chứng nhưng nhiều huyện khác lại không có tổ chức nào. Cũng có địa phương không phát triển được văn phòng công chứng. Mặc dù Bộ đã có yêu cầu nhưng đến nay nhiều địa phương chưa đánh giá được đầy đủ thực trạng về tổ chức và hoạt động cũng như dự báo nhu cầu hoạt động công chứng, theo đó ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ Đề án quy hoạch tổng thể tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020.
Theo Bộ trưởng Hà Hùng Cường, các hoạt động công chứng, chứng thực liên quan trực tiếp đến hàng triệu người dân nên cần phải nhanh chóng tháo gỡ. Trong năm 2010, Bộ sẽ tổ chức cùng các ngành hữu quan và địa phương rà điều chỉnh, xây dựng quy hoạch về hoạt động công chứng, ban hành một số thông tư hương dẫn một số điều về công chứng. Đồng thời trình quốc hội xem xét, sửa đối luật công chứng và và xây dựng luật về chứng thực. Thống kê của Bộ Tư pháp cho biết, hiện cả nước có 254 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 131 phòng công chứng, 123 văn phòng công chứng. Trong 2 năm qua đã công chứng được trên 1,48 triệu việc, tổng số phí thu được là trên 549 tỉ đồng.
4. Thời báo kinh tế Sài Gòn online có bài Quy định mới có mâu thuẫn với luật?. Bài báo phản ánh: Ngày 4-1-2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2010/NĐ-CP quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
Theo đó, các công ty cổ phần hay công ty chuyển đổi sang hình thức cổ phần muốn bán cổ phần cho nhà đầu tư (dưới 100 nhà đầu tư) phải đăng ký thủ tục tùy theo lĩnh vực kinh doanh với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước, Sở Kế hoạch-Đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Công ty chỉ được tiến hành chào bán khi nhận được thông báo của cơ quan quản lý dưới hình thức công bố “Danh sách tổ chức chào bán cổ phần riêng lẻ" hay sau 15 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ. Bên cạnh đó, đối với các trường hợp vi phạm nghị định này mức xử phạt tối đa lên đến 100.000.000 đồng. Ngoài ra, công ty còn phải báo cáo kết quả chào bán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày chào bán và phải sử dụng số tiền thu được đúng mục đích của việc huy động ban đầu. Nếu muốn thay đổi phải được Đại hội đồng cổ đông hay Hội đồng quản trị (được Đại hội đồng cổ đông ủy quyền) thông qua. Một yếu tố hết sức quan trọng là nghị định đã quy định về hạn chế thời gian chuyển nhượng của các cổ đông mới mua cổ phần trong một năm kể từ khi hoàn thành đợt chào bán.
Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ hạn chế quyền chuyển nhượng của cổ đông sáng lập trong 3 năm. Nghị định 14/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật Chứng khoán chỉ hạn chế chuyển nhượng đối với cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ. Như vậy, quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông trong vòng một năm kể từ khi hoàn thành đợt chào bán như được nêu tại nghị định này có thể đã mâu thuẫn với luật hiện hành?


File đính kèm