I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tin tức có bài 21 ngư dân đã về đến huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) an toàn. Bài báo đưa tin: Bà Phạm Thị Hương, Phó Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn (Quảng Ngãi) cho biết: Vào lúc 1 giờ 30 phút ngày 22/4, tàu cá QNg 66074TS cùng 21 ngư dân bị phía Trung Quốc bắt giữ đã cập cảng Lý Sơn (Quảng Ngãi) an toàn, trong niềm vui, hạnh phúc của các gia đình, người thân.
Trước đó, ngày 3/3, tàu cá QNg-66074TS do ngư dân Trần Hiền (ở thôn Tây, xã An Vĩnh) là chủ kiêm thuyền trưởng, trên tàu có 11 ngư dân và tàu cá QNg 66101TS của ông Lê Vinh, do ông Bùi Thu làm thuyền trưởng, trên tàu có 10 ngư dân, đã bị phía Trung Quốc bắt giữ tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ngay sau khi nhận được thông tin 21 ngư dân Quảng Ngãi bị phía Trung Quốc bắt giữ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc thả ngay và vô điều kiện các ngư dân và tàu cá nói trên. Ngày 20/4, phía Trung Quốc thông báo đã thả 21 ngư dân cùng tàu cá QNg-66074TS của Việt Nam. Bộ Ngoại giao cho biết sẽ tiếp tục làm việc với phía Trung Quốc về tàu cá còn lại.
2. Báo Người lao động Online đưa tin Việt Nam yêu cầu thực hiện thỏa thuận của MRC. Bài báo đưa tin: Ngày 22-4, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc tại Hội nghị Cấp cao Mê Kông - Nhật Bản lần thứ 4, các nhà lãnh đạo có trao đổi về việc sử dụng và quản lý bền vững nguồn nước sông Mê Kông không, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết tại hội nghị này, các nhà lãnh đạo rất quan tâm và trao đổi kỹ về vấn đề quản lý và sử dụng nguồn nước sông Mê Kông.
Hội nghị đã thông qua “Chiến lược Tokyo”, trong đó ghi rõ cần tiến hành các biện pháp và hành động cụ thể để nghiên cứu việc quản lý và phát triển bền vững sông Mê Kông, trong đó có tác động của đập thủy điện trên dòng chính.
Ông Nguyễn Minh Quang cũng nêu rõ theo tinh thần đó, Việt Nam đề nghị các nước liên quan thực hiện nghiêm túc thỏa thuận của phiên họp Hội đồng Ủy hội sông Mê Kông quốc tế (MRC) tại Siem Reap (Campuchia) tháng 12-2011 và thỏa thuận của các nhà lãnh đạo tại hội nghị lần này.
3. Trang web vtv.vn có bài Tháng 4, CPI cả nước tăng 0,06%. Bài báo phản ánh: Chiều qua (20/4), tại phiên thảo luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 4/2012 chỉ khoảng 0,06%.
Tháng 3 vừa qua, CPI tăng 0,16%, thấp nhất trong 20 tháng qua và cùng kỳ 3 năm gần đây. Tuy nhiên, với công bố của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, "kỷ lục" của CPI tháng 3 đã bị phá chỉ sau một tháng. Cũng theo số liệu cục Thống kê Hà Nội vừa công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2012 của Hà Nội lần đầu tiên sau một thời gian dài đã tăng ở mức âm (-0,03%) so với tháng 3.Và đây là "đáy" trên đường hiển thị thống kê của 10 năm trở lại đây.
Theo đánh giá của Chính phủ, CPI trong quý 1/2012 đã giảm dần và có tốc độ tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm trước. Nguyên nhân là do thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, tín dụng, tăng cường quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước và đầu tư công. Sức mua của thị trường trong nước giảm, lương thực, rau quả được mùa cũng tác tác động làm giảm giá nông sản, thực phẩm. Bên cạnh đó, việc thực hiện nghiêm túc các biện pháp tăng cường quản lý giá cả, thị trường cũng đã góp phần làm giảm tốc độ tăng giá thời gian qua.
4. Báo Công lý có bài TANDTC tổ chức Hội thảo Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực. Bài báo phản ánh: Ngày 21-4, tại Hà Nội, TANDTC tổ chức Hội thảo Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực. Đến dự Hội thảo có đại diện Văn phòng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, VKSNDTC, Bộ Công an, TAQS Trung ương; lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc TANDTC và lãnh đạo một số TAND cấp tỉnh khu vực phía Bắc… Phó Chánh án TANDTC Trần Văn Tú và Nguyễn Sơn chủ trì Hội thảo.
Thay mặt lãnh đạo TANDTC, đồng chí Nguyễn Sơn nêu rõ, trên cơ sở Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 1-6-2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án, VKS và Cơ quan điều tra thì việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực sẽ không phụ thuộc vào đơn vị hành chính nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng xét xử, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền, chủ động hội nhập quốc tế. Việc tổ chức, hoạt động của TAND sơ thẩm khu vực theo hướng hợp lý, khoa học về cơ cấu tổ chức và hiện đại về điều kiện, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm, chất lượng, hiệu quả công tác của TAND các cấp nói chung và TAND sơ thẩm khu vực nói riêng; xây dựng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án các cấp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xét xử, đảm bảo phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới của đất nước…
Tại hội thảo, lãnh đạo Vụ Thống kê - Tổng hợp và Vụ Tổ chức - Cán bộ TANDTC trình bày khái quát Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực và Báo cáo về việc triển khai chuẩn bị thành lập TAND sơ thẩm khu vực. Theo đó, do có sự chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, hiện nay 63 TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cơ bản triển khai xong lộ trình xây dựng Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực.
Hoạt động xét xử của TAND sơ thẩm khu vực có liên quan chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp, nhất là cơ quan công tố và thi hành án. Vì vậy, việc xây dựng cơ quan VKS, Thi hành án đồng bộ về tổ chức và hoạt động tương ứng với các TAND sơ thẩm khu vực là điều kiện cần thiết đối với việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực. Đồng thời để bảo đảm hoạt động đồng bộ giữa TAND sơ thẩm khu vực và các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập, thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cơ quan thì cần phải quy chế hóa hoạt động phối hợp giữa TAND và các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý, giải quyết các loại vụ án thuộc thẩm quyền.
Trong phần thảo luận, các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến nhằm làm rõ hơn quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực, tiêu chí xác định số lượng TAND sơ thẩm khu vực, tính đồng bộ của các cơ quan tư pháp, thực trạng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất của TAND cấp huyện…
Sau một ngày làm việc với tinh thần tích cực, khẩn trương, qua nội dung buổi Hội thảo này, Ban lãnh đạo TANDTC sẽ tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, hoàn thiện Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực để báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương xem xét, chỉ đạo.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Dân trí có bài Vụ tranh chấp đất tại quận Tây Hồ (Hà Nội):Viện ra nhiều lý do để thoái thác thi hành án. Bài báo đưa tin: Báo Dân trí nhận được đơn kiến nghị của ông Phạm Xuân Mừng và vợ là bà Lưu Thị Hoàng Anh, trú tại khu tập thể Học viện Nguyễn Ái Quốc (244 Đặng Tiến Đông phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội) phản ánh: Theo bản án số 257/2011/DS-PT ngày 30/12/2011 của TAND TP. Hà Nội cho thấy: Năm 2006, vợ chồng ông Mừng và bà Hoàng Anh có mua của ông Trần Văn Thơm, cán bộ công an quận Tây Hồ 2 lô đất số 32, 33 khu D3- B1 vườn Đào, đường Lạc Long Quân, diện tích 431m2. Nguồn gốc 02 lô đất trên là đất trúng thầu của Công ty Hồng Lan (trụ sở 287 Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội) với giá 28.500.000đ/m2. Ông Thơm cho bà Hoàng Anh xem “Hợp đồng kinh tế” số 18/HĐKT-CNQSDĐ ngày 23/2/2004 giữa Công ty Hồng Lan với ông Thơm; đồng thời còn dẫn bà Hoàng Anh trựcc tiếp đến Công ty Hồng Lan để xác minh nguồn gốc đất và tìm hiểu sự thật việc giao dịch mua bán đất giữa ông Thơm với Công ty Hồng Lan.
Sau khi xem xét giấy tờ ngày 23/12/2006, bà Hoàng Anh đã đặt cọc cho ông Thơm 250.000.000đ và thỏa thuận từ 23/02/2006 đến 20/01/2007 sẽ thanh toán đủ tiền mua đất cho ông Thơm. Ngày 06/01/2007 vợ chồng bà Hoàng Anh và ông Mừng đã chuyển cho ông Thơm số tiền là 4.111.500.000đ cộng với 250.000.000đ tiền đặt cọc tổng cộng là 4.361.500.000đ. Sau đó, ngày 06/01/2007, ông Thơm đã ký hợp đồng chuyển nhượng lại cho ông Mừng và bà Hoàng Anh 2 lô đất có diện tích 431m2 với giá 30.500.000đ/1m2.. Tổng số tiền là 13.045.000.000đ. Trong nội dung hợp đồng này nêu rõ ông Thơm có trách nhiệm đưa bà Hoàng Anh đến công ty Hồng Lan làm thủ tục thanh lý hợp đồng cũ (Giữa ông Thơm và công ty Hồng Lan ngày 23/02/2004) để làm lại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Mừng, bà Hoàng Anh sau khi trả đủ tiền mua đất. Thực hiện thỏa thuận này, vợ chồng ông Mừng đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ nộp tiền mua quyền sử dụng đất cho Công ty Hồng Lan mà Công ty này đã chuyển nhượng cho ông Thơm và ông Thơm chuyển nhượng lại cho vợ chồng vợ chồng bà Hoàng Anh và ông Mừng với tổng số tiền là 12.283.500.000đ. Số tiền còn lại 761.500.000đ ông Thơm được hưởng theo thỏa thuận. Song sau đó do giá đất tăng vọt nên mặc dù ông Thơm và bà Hoàng Anh đã thanh toán đầy đủ toàn bộ số tiền đúng như thỏa thuận nhưng Công ty Hồng Lan lại lợi dụng sự chuyển nhượng giữa ông Thơm và ông Mừng trắng trợn lặn ra các lý do kỳ quặc như không biết bà Hoàng Anh là ai ? Thậm chí Công ty còn chuyển trả lại toàn bộ số tiền 12.283.500.000 vào tài khoản cho ông Mừng nhằm phá vỡ hợp đồng, chiếm đoạt tài sản của bên mua. Qua nhiều lần hòa giải không thành năm 2008 vợ chồng ông Mừng đành phải đưa vụ việc ra Tòa án nhờ giải quyết.
TAND quận Tây Hồ xét xử sơ thẩm lần đầu năm 2008 đã tuyên 2 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Hồng Lan và ông Trần Văn Thơm; giữa ông Trần Văn Thơm và ông Phạm Xuân Mừng là vô hiệu, lỗi hoàn toàn do Công ty Hồng Lan và ông Thơm. Do có kháng cáo, Tòa Phúc thẩm TP Hà Nội thấy quá trình tố tụng bỏ sót người có quyền lợi liên quan nên đã hủy án sơ thẩm, đưa về xử lại từ đầu.
Ngày 23/9/2011, TAND quận Tây Hồ lần thứ hai xét xử sơ thẩm, ra bản án số 04/DS-ST như nội dung bản án sơ thẩm lần đầu.
Do Công ty Hồng Lan kháng cáo nên Tòa Phúc thẩm TAND TP Hà Nội xét xử phúc thẩm lần hai ngày 30/12/2011 ra bản án số 257/2011/DS-PT. Tòa Phúc thẩm ra bản án số 257 tuyên hủy hai hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ trên là vô hiệu, buộc Công ty Hồng Lan có trách nhiệm thanh toán trả lại cho bà Lưu Thị Hoàng Anh và ông Phạm Văn Mừng số tiền đã nhận là 12.283.500.000 đồng và bồi thường thiệt hại do lỗi làm hợp đồng vô hiệu là 121.660.000.000 đồng; buộc ông Trần Văn Thơm có trách nhiệm thanh toán trả cho vợ chồng bà Lưu Thị Hoàng Anh và ông Phạm Văn Mừng số tiền là 761.500.000 đồng và bồi thường thiệt hại lỗi làm hợp đồng vô hiệu là 7.700.000.000 đồng; cấm công ty Hồng Lan chuyển dịch đối với 2 lô đất số 32 và 33 khu D3-B1 vườn Đào, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội trong thời gian giải quyết tranh chấp và kê biên toàn bội diện tích để đảm bảo thi hành án.
Ngày 16/2/2012, Chi cục THA quận Tây Hồ ra quyết định số 25D/QĐ-CCTHA-DS buộc công ty Hồng Lan phải thực hiện các nội dung của bản án 257/2011/DS-ST do TAND TP Hà Nội tuyên ngày 30/12/2011, song do Công ty Hồng Lan vẫn cố tình viện ra nhiều lý do thoái thác việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật, đồng thời gửi nhiều đơn đến các cơ quan pháp luật ở Trung ương nói sai bản chất sự việc.
Ngày 28/2/2012, TANDTC có CV số 04/TANDTC-DS gửi Chi cục THADS quận Tây Hồ đề nghị tạm hoãn thi hành án trong thời hạn 90 ngày để xem xét khiếu nại của đương sự.
2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Đòi phòng công chứng bồi thường hơn 1,1 tỉ đồng. Bài báo phản ánh: TAND quận 3, TP.HCM vừa thụ lý đơn kiện của bà Lê Thị Hòa (ngụ quận 10, TP.HCM) đòi văn phòng công chứng Trung Tâm phải bồi thường cho bà 1 tỉ đồng thiệt hại do văn phòng công chứng không làm hết trách nhiệm trong việc chứng hợp đồng thế chấp căn nhà 16 Đỗ Tấn Phong (Q.Phú Nhuận). Bà Hòa còn yêu cầu văn phòng công chứng Trung Tâm phải bồi thường thêm khoản tiền lãi từ việc cho vay là 140 triệu đồng.
Như Tuổi Trẻ đã thông tin, bà Lê Thị Hòa là nạn nhân của đường dây sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo người cho vay tiền, mua nhà nhưng vẫn được các văn phòng công chứng xác nhận hợp đồng (“Giấy tờ giả lọt cửa công chứng”, Tuổi Trẻ ngày 12-3-2012). Ngày 6-1-2011, bà Lê Thị Hòa đến văn phòng công chứng Trung Tâm (đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 3) để chứng hợp đồng thế chấp căn nhà 16 Đỗ Tấn Phong giữa bà và vợ chồng ông Trần Văn Lực (chủ sở hữu căn nhà).
Theo sự giới thiệu của người quen trước đó, bà Hòa đồng ý nhận thế chấp căn nhà 16 Đỗ Tấn Phong để cho ông Lực và vợ là bà Nguyễn Thị Thanh Thúy vay số tiền 1 tỉ đồng trong thời gian ba tháng. Nếu quá ba tháng không trả được nợ, ông Lực và bà Thúy phải làm hợp đồng bán căn nhà cho bà Hòa.
Khi tiếp nhận hồ sơ công chứng của bà Hòa và vợ chồng ông Lực, công chứng viên Trần Công Khải đã xem xét hồ sơ và công chứng trên hợp đồng thế chấp của hai bên. Sau đó, bà Hòa đi tìm hiểu và khởi kiện vụ việc đến TAND quận Phú Nhuận thì mới biết hai người tự xưng là ông Lực và bà Thúy cùng đến văn phòng công chứng ký hợp đồng với bà là giả mạo.
Ông Trần Văn Lực và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy (thật) cho biết ông bà bị mất bộ bản chính giấy tờ căn nhà và đã xin cấp lại bộ giấy tờ khác. Giấy tờ nhà mà bà Hòa nhận thế chấp chính là bộ giấy sở hữu nhà mà ông Lực, bà Thúy đã bị mất, giấy tờ này không còn giá trị. Bà Hòa cũng đã tìm gặp được người phụ nữ mạo danh bà Nguyễn Thị Thanh Thúy để đi công chứng giấy tờ, đưa đến Công an quận 3 tố cáo.
Người phụ nữ khai nhận tên thật là Tô Thị Hồng, được một người đàn ông thuê giả làm “bà Thúy” với tiền công 5 triệu đồng. Để qua mặt được công chứng viên, hai người đã giả danh là vợ chồng ông Lực, bà Thúy bằng việc sử dụng giấy chứng minh nhân dân giả.
Cũng theo tìm hiểu, hai người mạo danh là Trần Văn Lực, Nguyễn Thị Thanh Thúy cũng sử dụng giấy chứng minh nhân dân giả, một bộ giấy tờ giả khác của căn nhà 16 Đỗ Tấn Phong để ký hợp đồng bán nhà (trị giá 500 triệu đồng) cho một người khác tại văn phòng công chứng Nguyễn Thị Tạc (quận Gò Vấp).
3. Báo An ninh Thủ đô có bài Những vụ ‘‘siêu lừa” quanh chiếc sổ đỏ. Bài báo phản ánh: Vụ mất trộm gần 500 phôi sổ đỏ tại thị xã Sơn Tây thời gian qua đã làm dấy lên trong dư luận nghi ngại về việc tiếp tục để xảy ra những vụ lừa đảo bằng các sổ đỏ giả. Không những thế thời gian gần đây, còn xuất hiện nhiều vụ án lừa đảo cả bằng sổ đỏ… thật. Tuy đã được cảnh báo, song số lượng các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng bị đưa vào “tròng” vẫn không hề giảm.
Trả lời câu hỏi tại sao các đối tượng có thể sử dụng sổ đỏ giả để lừa đảo một cách dễ dàng như vậy, một cán bộ điều tra của Phòng Cảnh sát điều tra về Trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (Công an Hà Nội)cho rằng: Một trong những nguyên nhân khiến cho việc lừa đảo bằng sổ đỏ giả gia tăng trong thời gian qua là do tình hình kinh tế khủng hoảng, dẫn tới nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực bất động sản bị tác động xấu. Khi thị trường bất động sản chững lại, các nhà đầu tư trở thành những con nợ nên một số đối tượng đã tiến hành làm sổ đỏ giả để lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, theo trung tá Hà Thế Hùng sở dĩ các đối tượng có thể sử dụng sổ đỏ giả để lừa đảo nhiều lần là bởi chúng có thể dễ dàng qua mặt được các công chứng viên. Việc này xuất phát từ một số bất cập trong Luật công chứng. Trong trường hợp phải công chứng các sổ đỏ bị làm giả, mặc dù bản thân công chứng viên khi tiếp nhận các yêu cầu này, nếu thấy nghi ngờ họ được quyền từ chối, song Luật Công chứng lại không có quy định nào buộc họ phải đem giấy tờ đó đi kiểm tra, xác minh hay giám định. Mà thực tế, nếu không qua giám định của cơ quan chức năng, chỉ bằng mắt thường thì rất khó để công chứng viên có thể xác định được Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đó là thật hay giả. Điều này thể hiện một thực trạng hiện nay, các phòng công chứng tư nhân thường đặt nặng vấn đề dịch vụ mà ít chú trọng đến tính pháp lý của giấy tờ được đưa đến công chứng. Ngoài ra, việc công chứng sổ đỏ hiện nay không có quy định vùng, địa bàn nên những người có nhu cầu công chứng sổ đỏ có thể mang giấy tờ đến bất cứ văn phòng nào để xác nhận. Trong khi đó các văn phòng công chứng lại chưa có kết nối với cơ quan quản lý để cập nhật thông tin về sổ đỏ. Đây chính là điểm mà tội phạm dễ lợi dụng để nhằm thực hiện hành vi của mình.
Còn về phía các cá nhân và những doanh nghiêp, tổ chức tín dụng, hầu hết đều do chủ quan hoặc buông lỏng các quy định thẩm tra nên họ đã mắc bẫy sổ đỏ giả của các “siêu lừa”. Điển hình như trong vụ án của “siêu lừa” Lê Bá Quỳ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội đã khởi tố 5 cán bộ ngân hàng (trong tổng số 6 ngân hàng mà đối tượng này đã lừa đảo) về tội danh vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Trao đổi về biện pháp ngăn chặn loại tội phạm sử dụng dụng sổ đỏ giả để lừa đảo, trung tá Hà Thế Hùng cho biết: Qua các vụ án liên quan đến việc làm sổ đỏ giả để lừa đảo đã xảy ra trong thời gian gần đây, Phòng Cảnh sát điều tra về Trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (Công an Hà Nội) sẽ có những kiến nghị với các cơ quan có chức năng của Hà Nội và các quận huyện về công tác quản lý phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cũng như công tác phối hợp cung cấp, kiểm chứng thông tin với các Văn phòng công chứng trong quá trình thực hiện giao dịch về nhà đất. Đồng thời sẽ kiến nghị Sở Tư pháp Hà Nội về quy trình, địa điểm công chứng Hợp đồng, văn bản liên quan đến bất động sản theo hướng bất động sản của quận huyện nào thì chỉ làm ở địa phương, quận, huyện đó. Còn với các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng cũng cần phải nâng cao cảnh giác để tự bảo vệ lợi ích cho chính mình.