I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin: Việt Nam và Vê-nê-xu-ê-la tăng cường hợp tác. Theo tin đã đưa, ngày 19-4, tại Thủ đô Ca-ra-cát, kỳ họp thứ hai Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Vê-nê-xu-ê-la đã khai mạc dưới sự chủ trì của hai đồng Chủ tịch là Phó Tổng thống R.Ra-mi-rết và Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải. Phó Tổng thống Ra-mi-rết mong muốn kỳ họp lần này tập trung thảo luận các lĩnh vực hợp tác giữa hai nước, nhằm tiến tới ký kết các dự án cụ thể, đánh giá cao các dự án hai nước đang hợp tác trong lĩnh vực dầu khí, nông nghiệp, điện, văn hóa...
2. Báo điện tử Chính phủ có bài Thủ tướng phê duyệt Chiến lược Tài chính đến năm 2020. Bài báo đưa tin: Theo Chiến lược Tài chính đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt, phát triển đồng bộ các loại thị trường, tái cấu trúc thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 50% GDP vào năm 2015 và đạt khoảng 70% vào năm 2020. Chiến lược đặt mục tiêu xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính- tiền tệ. Chiến lược Tài chính đến năm 2020 được thực hiện theo 2 giai đoạn, tương ứng với Kế hoạch Tài chính- ngân sách 5 năm 2011-2015 và Kế hoạch Tài chính- ngân sách 5 năm 2016-2020.
3. Báo Người lao động Online có bài Mỗi bộ có không quá 4 thứ trưởng. Bài báo phản ánh: Đó là quy định trong Nghị định số 36/2012/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ vừa được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ban hành.
Theo đó, số lượng thứ trưởng ở mỗi bộ không quá 4 người. Tuy nhiên, đối với bộ quản lý Nhà nước nhiều ngành, lĩnh vực lớn, quan trọng, phức tạp thì số lượng thứ trưởng có thể nhiều hơn 4 người. Trường hợp đặc biệt này do Thủ tướng quyết định.
Báo cũng đưa tin Nhân kỷ niệm 65 năm Bác Hồ viết thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku - Gia Lai (19.4.1947-19.4.2012), tối 19-4 tại Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã tới dự Đêm hội tôn vinh văn hóa các dân tộc Việt Nam.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Kiểm soát thu nhập, siết nhập hộ khẩu. Bài báo phản ánh: Đưa Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu ý dân vào chương trình chuẩn bị năm 2013; thông qua Luật Biển Việt Nam tại kỳ họp tới. Đó là những nội dung đáng chú ý được nêu ra trong phiên thảo luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UB TVQH) về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013. Trong đó đáng chú ý là các nội dung về sửa đổi Luật Cư trú, Luật Đất đai và Luật Phòng, chống tham nhũng.
Theo quy định hiện hành tại Luật Cư trú, công dân muốn đăng ký thường trú vào các TP trực thuộc trung ương chỉ cần có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại TP đó từ một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản… Tại bản thuyết trình sửa đổi Luật Cư trú, Chính phủ cho rằng do các quy định thông thoáng trên nên tại Hà Nội và TP.HCM đã xuất hiện tình trạng lợi dụng các quy định này để nhập hộ khẩu vào hai TP, làm tăng dân số cơ học và gây sức ép về vấn đề quản lý trật tự, an toàn xã hội.
Tương tự, Đoàn đại biểu QH TP Đà Nẵng - một trong những địa phương đang bị Bộ Tư pháp “tuýt còi” vì ban hành các quy định về tạm dừng nhập cư sai luật, cũng đề nghị sớm sửa đổi Luật Cư trú. Trong đó, Đà Nẵng cũng kiến nghị xem xét lại những điều kiện nhập khẩu vào các TP lớn.
Để khắc phục những bất cập trên, Chính phủ dự kiến sửa đổi, bổ sung Luật Cư trú theo hướng tăng thêm các điều kiện về nhập cư. Trong đó, tăng thời gian tạm trú từ một năm lên ba năm và quy định về diện tích chỗ ở tối thiểu 5 m2/người đối với các trường hợp đăng ký thường trú vào chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ. Dự kiến, Luật Cư trú sửa đổi sẽ trình ra xin ý kiến QH vào kỳ họp thứ sáu (cuối năm 2013).
Theo định hướng của Chính phủ, việc sửa đổi Luật Đất đai lần này sẽ làm rõ những vấn đề về quyền sở hữu đất đai của Nhà nước; các quyền chung của các chủ thể quản lý, sử dụng đối với đất đai và khái niệm người sử dụng đất bao gồm tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Đồng thời, hoàn thiện các quy định về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; cũng như quy định về thời hạn, hạn mức sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.
Theo chương trình xây dựng ban đầu, dự án trên sẽ được trình ra xin ý kiến QH tại kỳ họp thứ tư cuối năm nay và xem xét thông qua tại kỳ họp thứ năm vào giữa năm 2013. Tuy nhiên, Chính phủ kiến nghị lùi thời gian trình sang kỳ họp thứ năm và thông qua tại kỳ thứ sáu, với lý do chờ sửa Hiến pháp.
“Dự án Luật Đất đai là dự án luật rất quan trọng, đã có thời gian chuẩn bị tương đối dài, đang được đại biểu QH và nhân dân cả nước quan tâm. Do đó, cơ quan soạn thảo cần đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án luật này” - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý nhấn mạnh.
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong việc sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN). Theo đó, định hướng sửa đổi là hoàn thiện quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ quan PCTN chuyên trách theo hướng tăng tính độc lập. Đồng thời, bổ sung hành vi tham nhũng trong khu vực tư về tội danh đưa, nhận hối lộ và tham ô tài sản; hoàn thiện quy định về bảo vệ nhân chứng, chuyên gia và nạn nhân là người đã cung cấp lời khai, cung cấp thông tin liên quan đến tố giác tham nhũng. Ngoài ra, quy định xử lý bằng biện pháp hình sự đối với hành vi đưa và nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác có liên quan đến công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế.
Bên cạnh đó, dự án luật cũng sẽ bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt, sẽ nghiên cứu xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài sản của người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Dự kiến, dự án Luật PCTN sửa đổi sẽ được xem xét và thông qua tại kỳ họp thứ sáu (cuối năm 2013).
5. Trang vtv.vn đưa tin: Sáng 19/4, Chính phủ đã trình lên UBTVQH Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Mục tiêu của đề án tái cơ cấu là từng bước và liên tục nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc với lạm phát thấp và các nền tảng vĩ mô vững mạnh, thiết lập sự phát triển cân đối giữa các địa phương, vùng miền cũng như cải thiện và nâng cấp trình độ phát triển của các ngành kinh tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
Để thực hiện các mục tiêu này, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần phải được triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, cơ sở trong phạm vi nhiều năm.
Ông Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đề nghị, khi thực hiện đề án, nên xây dựng một bộ tiêu chí để cảnh báo sức khỏe của nền kinh tế. “Chính phủ nên xây dựng bộ chỉ tiêu cảnh báo những rủi ro của nền kinh tế, như về nợ công, về cán cân xuất nhập khẩu, về thị trường lao động để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư biết và đưa ra các quyết định về kinh doanh, đầu tư”, ông Hiển phát biểu.
Một số đại biểu khác cho rằng, trong đề án này, Chính phủ chưa tính đến chi phí để thực hiện tái cơ cấu, các điều kiện để thực hiện chương trình này; tác động của thực hiện tái cơ cấu đối với đời sống xã hội, việc làm ra sao?
Bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề Xã hội Quốc hội cho rằng: “Cần tính đến các yếu tố tổn thương, các yếu tố rủi ro khi thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế…”
Ông Phan Xuân Dũng, Chủ nhiệm UB Khoa học, Công nghệ, Môi trường Quốc hội nhấn mạnh: “Cần đưa nguồn nhân lực vào đề án tái cơ cấu này như thế nào?”.
Một số đại biểu đặt câu hỏi: Hiện nay, Chính phủ đã ban hành các quyết định thực hiện tái cơ cấu ngân hàng, tài chính, vậy các quyết định này có được coi là một phần của Đề án tái cơ cấu nền kinh tế mà Ủy ban TVQH thảo luận hay không.
Ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội nói: “Tái cơ cấu phải mạnh hơn chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chúng ta đã có 2 quyết định tái cơ cấu ngân hàng, tài chính, nếu chúng ta thông qua thì sẽ lắp ghép vào đề án chung như thế nào?...”.
Sau khi Ủy ban TVQH cho ý kiến lần đầu vào Đề án này, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ thay mặt Chính phủ tổng hợp, tiếp thu chỉnh lý và trình Quốc hội thảo luận tại kỳ họp thứ Ba sẽ khai mạc vào cuối tháng 5 năm tới.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên Online đưa tin: TP.HCM vừa ký quyết định cho phép thành lập thêm 2 văn phòng thừa phát lại tại Q.Gò Vấp (số 22A Nguyễn Thái Sơn, P.3) và Q.10 (số 137 Ba Tháng Hai, P.11). Trước đó đã có 5 văn phòng thừa phát lại được thành lập tại các quận: 1, 5, 8, Bình Thạnh và Tân Bình.
2. Báo nhà báo và công luận có bài Xung quanh vụ án “xù nợ” hơn 24 tỷ đồng ở Lương Tài (Bắc Ninh) Cơ quan Thi hành án vô trách nhiệm?. Bài báo cho biết: Nhận gần 24 tỷ đồng của đối tác nhưng đến hạn lại không giao hàng. Cả ba cấp tòa đều chung phán quyết buộc Cty CP Kim khí Hưng Yên phải hoàn trả số tiền này cho Cty TNHH cán thép Tam Điệp. Tuy nhiên, sau gần 2 năm, với nhiều lần ra thông báo cưỡng chế nhưng bản án vẫn không được thực thi. Đây là câu hỏi đặt ra đối với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Lương Tài.
Ngày 27-12-2007, Cty CP Kim khí Hưng Yên và Cty TNHH Cán thép Tam Điệp ký hợp đồng mua bán phôi thép. Theo đó, Cty CP Kim khí Hưng Yên có trách nhiệm bàn giao cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp 2.000 tấn phôi thép, thời gian hàng từ 3-1 đến 15-1-2008, tổng giá trị hợp đồng tạm tính là 23,4 tỷ đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng, Cty TNHH Cán thép Tam Điệp đã chuyển cho Cty CP Kim khí Hưng Yên 20 tỷ đồng, số còn lại sẽ thanh toán cho bên bán tại thời điểm nhận hàng. Nhưng, Cty CP Kim khí Hưng Yên đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng của mình. Chính vì vậy, tại bảng kê khai tính lãi ngày 17-1-2008, Cty CP Kim khí Hưng Yên đã ký nhận nợ Cty TNHH Cán thép Tam Điệp 31.004.703.763 đồng. Trong đó, 20 tỷ đồng là tiền đưa trước để đảm bảo thực hiện hợp đồng và hơn 14 tỷ đồng là tiền lãi của khoản tiền trên, số còn lại là của một số các hợp đồng kinh tế trước đó.
Ngày 6-6-2008, Cty CP Kim khí Hưng Yên mới trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp 10 tỷ đồng, số tiền còn lại là 21.004.708.763 đồng đến nay vẫn chưa thanh toán. Để bảo vệ quyền lợi của mình, căn cứ vào các điều khoản ghi trong hợp đồng mua bán phôi thép, ngày 10 – 5- 2010, Cty TNHH Cán thép Tam Điệp đã khởi kiện Cty CP Kim khí Hưng Yên ra TAND huyện Lương Tài (Bắc Ninh) đề nghị Tòa chấm dứt hợp đồng mua bán phôi thép và yêu cầu Cty CP Kim khí Hưng Yên phải hoàn trả 20.146.666.667 đồng và lãi suất của khoản tiền này tính từ ngày 17-1-2008.
Ngày 26-7-2010, TAND huyện Lương Tài đã đưa ra xét xử vụ án này. Căn cứ vào những chứng cứ và dựa trên cơ sở pháp luật, HĐXX đã đưa ra phán quyết: Hủy bỏ hợp đồng mua bán phôi thép giữa Cty CP Kim khí Hưng Yên và Cty TNHH Cán thép Tam Điệp ký ngày 27-12-2007. Buộc Cty CP Kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp tổng số tiền là 24.200.286.397 đồng.
Ngày 10-11-2010, TAND tỉnh Bắc Ninh mở phiên xét xử phúc thẩm vụ án này. HĐXX đã đưa ra phán quyết giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm. Như vậy, Cty CP Kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm trả 24.200.286.397 đồng cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp, nếu không thực hiện sẽ bị cưỡng chế thi hành án.
Sau khi bản án phúc thẩm có hiệu lực, ngày 26-11-2010, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Tài có Quyết định số 07/QĐ-THA “Thi hành án theo đơn” đối với Cty CP Kim khí Hưng Yên do Chi cục trưởng Nguyễn Xuân Tam ký. Theo đó, công ty này phải có trách nhiệm thanh toán trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp 24.200.286.397 đồng. Quyết định này cũng nêu rõ: Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Tài có trách nhiệm tổ chức thi hành Quyết định này. Tuy nhiên, Quyết định này chỉ được ban hành còn việc tổ chức thực thi vẫn “dẫm chân tại chỗ”.
Vụ án lại tiếp tục kéo dài khi ngày 24-3-2011, VKSNDTC có kháng nghị bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh. Ngày 27-6-2011, TANDTC đã đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm. HĐXX đã bác kháng nghị của VKSNDTC và tuyên giữ nguyên nội dung bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh, buộc Cty CP Kim khí Hưng Yên phải trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp 24.200.286.397 đồng.
Những tưởng đến đây, bản án sẽ được thực thi để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật thì thật khó hiểu là đến nay, Cty CP Kim khí Hưng Yên vẫn chưa trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp một đồng nào trong số tiền 24.200.286.397 đồng phải trả. Trong khi đó, từ tháng 3-2011 đến tháng 11-2011, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Tài đã ban hành tới 4 quyết định về việc thi hành án. Tuy nhiên, hết ban hành văn bản này đến văn bản khác nhưng kết cục vẫn chẳng thay đổi: Cty CP Kim khí Hưng Yên vẫn ung dung hoạt động và cố tình không trả 24.200.286.397 đồng!
Một điều khó hiểu nữa trong khoảng thời gian nêu trên, Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Tài mà cụ thể là Chi cục trưởng Nguyễn Xuân Tam đã liên tục có những quyết định “Tiếp tục thi hành án” nhưng rồi lại “Tạm đình chỉ thi hành án”, “Trả lại đơn yêu cầu thi hành án”. Ngày 23-9-2011, ông Nguyễn Xuân Tam ký Quyết định số 06/QĐ-THA quyết định “Trả lại đơn yêu cầu thi hành án” với lý do “Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án (toàn bộ tài sản của công ty đang thế chấp tại ngân hàng, công ty hiện đã nợ quá hạn)”. Quyết định này đã gây bức xúc trong dư luận. Theo đại diện Cty TNHH Cán thép Tam Điệp, quyết định trên không phản ánh đúng thực tế của Cty CP Kim khí Hưng Yên bởi lẽ công ty này vẫn hoạt động bình thường, vẫn xuất hàng cho các khách hàng khác. Trên thực tế, không có chuyện tài sản của công ty này không đủ 24.200.286.397 đồng để trả cho Cty TNHH Cán thép Tam Điệp, đặc biệt là khi công ty này vẫn đang sản xuất và bán phôi thép ra ngoài.
Đã nhận tiền thì phải giao hàng, không làm được thì phải hoàn trả tiền. Xét cả về pháp luật lẫn đạo lý kinh doanh thì không thể để Cty CP Kim khí Hưng Yên ung dung chiếm giữ gần 25 tỷ đồng của người khác rồi thoái thác trách nhiệm. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Tài đã thực sự kiên quyết trong việc tổ chức thi hành án hay chưa?
3. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Bản “Án có hiệu lực pháp luật” đã bị thu hồi. Bài báo phản ánh: Như báo PL&XH đã đưa tin, sau khi Cty Ba Đình có đơn kháng cáo gửi TAND Hà Nội và nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định thì nhận được thông báo của TAND Hà Nội ghi rõ "đơn kháng cáo hợp lệ". Ngày 13-1-2012, đại diện Cty Ba Đình đã đến Cục THADS Hà Nội nộp tiền tạm ứng án phí. Sau đó, đại diện Cty này đã mang biên lai thu tiền của Cục THADS Hà Nội đến nộp cho thẩm phán Nguyễn Văn Bốn tại TAND TP Hà Nội. Dù cầm trong tay bản án có đóng dấu "Án chưa có hiệu lực pháp luật" nhưng bất ngờ Cty Ba Đình nhận được quyết định THA từ Cục THADS TP Hà Nội. Việc Cục THADS TP Hà Nội vội ra quyết định THA mà "quên" mất việc đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm khiến nhiều người quan tâm đến vụ việc phải đặt dấu hỏi. Đại diện Cty Ba Đình khẳng định, việc đại diện Cty nộp cho thẩm phán Nguyễn Văn Bốn biên lai thu tiền của Cục THADS Hà Nội nhưng vị này vẫn cho đóng dấu "Án có hiệu lực pháp luật" là không minh bạch. Sau khi nhận được quyết định THA, Cty Ba Đình đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng và báo chí. Ngày 12-4-2012, bà Ngô Thị Minh Ngọc, Phó Chánh án TAND Hà Nội đã ký Quyết định số 496/2012/QĐ-CA: "Yêu cầu thẩm phán ra Thông báo thu hồi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật số 01/2012/KDTM-ST ngày 3/1/2012… Hoàn chỉnh hồ sơ kháng cáo chuyển lên Tòa phúc thẩm-TANDTC xem xét giải quyết kháng cáo theo quy định của pháp luật". Vụ việc đã trở về đúng nơi đương nhiên phải thế. Tuy nhiên, nói về trách nhiệm của những người liên quan, TAND TP Hà Nội chỉ nêu: "Việc thẩm phán ký bản án có hiệu lực pháp luật thi hành, căn cứ vào đương sự có yêu cầu nên cơ quan THA DS TP Hà Nội ra quyết định thi hành bản án là Thẩm phán chưa thận trọng xem xét kỹ các tình huống sau phiên tòa". Tại quyết định này cũng ghi rõ: "Từ đó đến nay, TAND Hà Nội không nhận được Biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm của Cty Ba Đình…". Về nội dung này, đại diện Cty Ba Đình không đồng ý và tái khẳng định đã nộp Biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm bản gốc cho Thẩm phán Nguyễn Văn Bốn.
Ông Phạm Tuấn Anh, Chánh tòa Kinh tế TAND TP Hà Nội cho biết: "Không có quy định nào về việc phải xác nhận việc "tiếp nhận biên lai thu tiền án phí" của đương sự". Với phương thức làm việc này, nếu thẩm phán nhận biên lai nhưng đánh mất rồi nói chưa nhận được thì đương sự chỉ còn biết kêu… trời. May là Cty Ba Đình đã cẩn thận photo lại cái biên lai quan trọng này(?!)
Nếu Cty Ba Đình không có bản photo biên lai nộp tiền tại Cục THADS TP Hà Nội và nếu đương sự không khiếu nại, công luận không lên tiếng thì nhiều khả năng Cty Ba Đình đã bị tước đoạt quyền kháng cáo hợp pháp của mình. Chưa biết ai thắng thua thế nào nhưng việc TAND TP Hà Nội có đến hai bản án giống nhau, một đóng dấu "Án chưa có hiệu lực pháp luật", một đóng dấu "Án đã có hiệu lực pháp luật" đã khiến nhiều người băn khoăn, nghi ngại.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài “Dở khóc dở mếu“ chuyện “nguyên quán hay quê quán“ khi đăng ký khai sinh. Bài báo phản ánh: Đã có một thời hai cụm từ “nguyên quán” và “quê quán” khiến cho bao người dở khóc dở cười vì không thể phân biệt. Sau đó, nhờ quá trình cải cách và đơn giản hóa thủ tục, hai cụm từ này đã được quy về một mỗi, thậm chí được giản lược, bỏ qua ở một số loại giấy tờ. Thế nhưng, sự rắc rối của những ông bố bà mẹ khi đi khai sinh, khai khẩu cho con nào đã hết…
Cách đây gần chục năm, khi chị Đinh Thị Quyên (khu tập thể Bách Khoa, HN) đi đăng ký khai sinh cho con đã gặp rắc rối vì hai từ “quê quán”. Chồng chị Quyên vốn là người Hải Dương, nhưng cha mẹ anh khi còn trẻ đã lên Hà Nội công tác và sinh sống rồi cưới nhau, sinh ra chồng chị và định cư. Khi khai đăng ký khai sinh cho con, chị Quyên ghi quê quán của con là Hải Dương theo quê gốc của ông nội cháu.
Nhưng, lạ một nỗi là cán bộ hộ tịch không chịu và yêu cầu chị phải khai lại với phần quê quán là Hà Nội – cũng chính là nơi sinh của chồng chị, cha đứa bé. Chị Quyên ngẩn mặt thắc mắc: “Nhưng quê chồng tôi có phải là Hà Nội đâu, đó chỉ là nơi sinh thôi mà ”, thì được giải thích: “Đề nghị chị xem lại phần hướng dẫn khai. Quê quán là nơi sinh trưởng của cha đẻ. Còn nguyên quán mới là quê gốc của chồng chị.”
Đó là câu chuyện của ngày xưa, trước khi Chính phủ ban hành Nghị định 170/2007/NĐ-CP sửa đổi mục "nguyên quán" thành "quê quán" (trước đây Bộ Tư pháp và Bộ Công an có sự khác nhau về sử dụng thuật ngữ nguyên quán, quê quán.
Thuật ngữ "nguyên quán" là do Bộ Công an đưa ra để yêu cầu người dân khai trong các giấy tờ do bộ này có thẩm quyền cấp như: chứng minh nhân dân, hộ khẩu... Còn Bộ Tư pháp sử dụng thuật ngữ "quê quán" để yêu cầu người dân khai khi đi làm giấy khai sinh, lý lịch...). Nhưng một thời gian sau khi có văn bản thống nhất “nguyên quán” và “quê quán”, sự hướng dẫn cụ thể từ cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa có.
Thế nên mới có chuyện khi đi làm giấy tờ hộ tịch nhất là đăng ký khai sinh cho con, có nơi hướng dẫn người dân khai "quê quán là quê gốc của cha", có nơi lại hướng dẫn khai "quê quán là nơi sinh trưởng của cha"… gây ra những tranh cãi không đáng có ngay trong chính các cơ quan công quyền, lẫn công dân và cán bộ.
Để chấm dứt tình trạng tranh cãi này, ngày 2/6/2008, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch. Theo đó, Điểm e, Khoản 1, Mục II, Thông tư 01 quy định “quê quán của con được xác định theo quê quán của người cha hoặc quê quán của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ”.
Thế nhưng, theo nhiều cán bộ tư pháp thì việc hướng dẫn khai quê quán như vậy vẫn chưa ổn, đạt tới sự thống nhất bởi quê quán theo thỏa thuận của cha mẹ thì sẽ được sự lựa chọn một trong hai nơi (cha hoặc mẹ), trong khi tập quán thì mỗi vùng, mỗi miền mỗi khác, tránh sao được sự xung đột trong chính bản thân gia đình người đi làm giấy tờ.
Anh Phạm Hồng Hà (ở khu tập thể Nam Đồng, HN) lấy vợ và sinh đứa con đầu lòng tháng 8/2010. Anh Hà có vợ là người dân tộc Thái nên khi đi đăng ký hộ khẩu anh đã khai quê quán của con anh theo vợ để sau này con được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thế nhưng, việc làm của anh không được gia đình bên nội nhất trí, bắt theo quê cha nên anh phải đi cải chính lại giấy tờ.
Tuy nhiên, lúc này cái khó lại nảy sinh khi cán bộ cho biết rằng vì trong mẫu giấy khai sinh mới không có phần ghi về quê quán, nên nếu giải quyết nội dung cải chính quê quán để chỉnh sửa hộ khẩu thì… không thể thực hiện được vì không có gì làm căn cứ.
Sở dĩ có sự trúc trắc như vậy bởi ngày 1/7/2010, theo Thông tư số 08.a/ 2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đã đồng loạt đưa vào sử dụng biểu mẫu hộ tịch mới theo quy định của Bộ Tư pháp.
Các biểu mẫu hộ tịch mới có nhiều thay đổi so với biểu mẫu cũ. Đặc biệt trong biểu mẫu khai sinh, bỏ mục “quê quán” trong phần khai về nhân thân của người được khai sinh... Thế nhưng lúc này một vấn đề mới lại nảy sinh, chính là câu chuyện của anh Hà nói tới ở trên đây.